Nếu số vốn đóng góp của khu vực FDI năm 2003 là 5 .624 tỷ đồng, năm 2005 là
7.484 tỷ đồng thì đến năm 2006, con số này là 11.881 tỷ đồng , tăng gấp 2,1 lần so với năm 2003 và gấp 1,6 lần so với năm 2005, đạt tốc độ tăng vốn đầu tư là 58,75%. Lượng vốn đầu tư của khu vực FDI tiếp tục tăng vào những năm tiếp the o và đạt 28.076 tỷ đồng vào năm 2008, tăng 11.283 tỷ đồng so với năm 2007 và đạt tốc độ tăng vốn là 67,19%. Năm 2009, vốn đầu tư của khu vực FDI là 30.167 tỷ đồng, tăng 2.091 tỷ đồng so với năm 2008 và tốc độ tăng vốn chỉ ở mức 7,45%, là mức thấp nhất trong giai đoạn 2004-2010. Đến năm 2010, vốn đầu tư của khu vực FDI đạt 35.593 tỷ đồng, cao gấp 6,3 lần so với năm 2003, nhưng chỉ cao hơn năm 2009 là 5.426 tỷ đồng. Do đó, tốc độ tăng vốn của khu vực FDI năm 2010 cũng chỉ đạt mức 17,99%.
+ Về tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào tổng vốn đầu tư xã hội của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Trong giai đoạn 2003-2010, vốn FDI luôn giữ ổn định ở mức đóng góp bình quân là khoảng 12% so với tổng vốn đầu tư xã hội của vùng. Tỷ lệ này ở mức cao nhất là năm 2006 với 15,02%, tiếp đến là năm 2008 với mức đóng góp là 14,8 4%. Trung bình giai đoạn 2003-2010, vốn FDI chiếm 13,17% so với tổng vốn đầu tư xã hội của vùng KTTĐ Bắc Bộ (xem biểu đồ 3.13). Kết quả này cho thấy, tỷ lệ đóng góp của khu vực vốn trong nước vào tổng vốn đầu tư xã hội ở vùng KTTĐ Bắc Bộ khá cao, chiếm khoảng 86,83%. Như vậy, khả năng đóng góp vốn của khu vực FDI vào tổng vốn đầu tư xã hội ở vùng KTTĐ Bắc Bộ còn rất hạn chế .
Biểu đồ 3.13: So sánh tốc độ và tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực FDI với tổng vốn đầu tư XH ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010
Đơn vị tính: %
80.00%
73.19
70.00%
67.19
58.75
60.00%
50.00%
40.00%
41.34
38.15
30.00%
24.12
20.68
20.00%
17.76
19.43
16.77
14.84
12.84
13.96
18.05
17.99
12.84
10.00%
15.02
11.68 11.30 12.26
7.45
0.00%
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tốc độ tăng vốn đầu tư của khu vực FDI
Tốc độ tăng vốn đầu tư XH vùng KTTĐ
Tỷ lệ vốn đầu tư khu vực FDI/tổng vốn đầu tư XH vùng KTTĐ Bắc Bộ
Nguồn: Xử lý của tác giả từ số liệu Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố
của vùng KTTĐ Bắc Bộ từ năm 2003 -2010
- Đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách địa phương vùng KTTĐ Bắc Bộ
Trong những năm qua, khu vực FDI đã có những đóng góp đáng kể cho ngân sách địa phương vùng KTTĐ Bắc Bộ. Năm 2003, khu vực FDI ở vù ng KTTĐ Bắc Bộ đã nộp 2.352 tỷ đồng vào ngân sách của vùng, năm 2007 là 10.354 tỷ đồng, cao gấp 4,4 lần so với năm 2003 và năm 2010 là 23.873 tỷ đồng, cao gấp 10,14% so với mức nộp ngân sách năm 2003 (xem biểu đồ 3.14).
Biểu đồ 3.14: Thu ngân sách từ khu vực FDI và tổng thu ngân sách vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010
Đơn vị tính: tỷ đồng
160,000
151,269
140,000
120,000
114,630
100,000
96,494
80,000
72,459
60,000
50,964
41,994
40,000
35,631
27,626
23,873
20,000
16,770
18,751
10,345
2,352
4,798
6,568
7,550
0
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Ngân sách thu từ khu vực FDI
Tổng thu ngân sách của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Nguồn: Xử lý của tác giả từ số liệu Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố từ 2003-2010
Như vậy, mặc dù mức thu ngân sách từ khu vực FDI trong giai đoạn này có xu hướng tăng lên, song mức nộp ngân sách từ khu vực FDI còn rất hạn chế, do đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng thu ngân sách từ khu vực FDI. Năm 2004, khu vực FDI đạt tốc độ tăng thu ngân sách là 104%, giảm xuống còn 36,89% (2005) và 14,95% (2006). Từ năm 2006 đến năm 2008, tốc độ tăng thu ngân sách từ khu vực FDI tăng trở lại và đạt mức 37,02% (năm 2007), thấp hơn so với tốc độ tăng của vùng KTTĐ Bắc Bộ (42,18%). Năm 2008, tốc độ tăng thu ngân sách từ khu vực FDI là 62,11%, cao hơn so với vùng KTTĐ Bắc Bộ (33,17%). Các con số lần lượt là 11,81% đối với khu vực FDI và 18,79% đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ (năm 2009); 27,32% đối với khu vực FDI và 31,96% đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ (năm 2010) (xem biểu đồ 3.15).
Với kết quả trên đây, khu vực FDI đã ngày càng đóng góp nhiều cho ngân sách của vùng KTTĐ Bắc Bộ. Tỷ trọng đóng góp ngân sách của khu vực FDI đã có bước tiến rõ rệt từ 8,51% năm 2003 lên 17,38% năm 2008. Từ năm 2004, tỷ lệ này chiếm khoảng từ 13% đến 17% trong tổng thu ngân sách. Tính chung cho cả giai đoạn 2003-2010, tỷ lệ nộp ngân sách của khu vực FDI so với tổng thu ngân sách của vùng là 15,4%/năm (xem biểu đồ 3.15).
Biểu đồ 3.15: So sánh tốc độ và tỷ lệ thu ngân sách từ khu vực FDI với tổng thu ngân sách vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010
Đơn vị tính: %
120.00%
100.00%
104.00
80.00%
62.11
60.00%
42.18
40.00%
36.89
33.17
31.96
28.98 21.36 37.02
17.86
18.79
27.32
20.00%
13.47
15.64
14.95
14.81
14.28
17.38
16.36%
11.81
15.78
0.00%
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tỷ lệ thu ngân sách từ khu vực FDI/tổng thu ngân sách vùng KTTĐ Bắc Bộ Tốc độ tăng thu từ khu vực FDI
Tốc độ tăng thu ngân sách vùng KTTĐ Bắc Bộ
Nguồn: Xử lý của tác giả từ số liệu Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố từ 2003-2010
Tuy nhiên, bên cạnh các doanh nghiệp có vốn FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ chấp hành tốt các chính sách cũng như đầu tư, kinh doanh có lãi và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh t ế - xã hội của vùng, còn có nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ kéo dài trong nhiều năm liên tục. Hiện tượng doanh nghiệp có vốn FDI thua lỗ kéo dài, lỗ giả lãi thật, chuyển giá nhằm chuyển thu nhập và lợi nhuận về nước xuất hiện khá phổ biến tại hầu hết các tỉnh, thành phố ở vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Bảng 3.1: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2004 -2011
Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | |
Doanh thu (DT) (triệu đồng ) | 28.576.479 | 40.997.220 | 56.262.850 | 68.414.454 |
Lợi nhuận (LN) (triệu đồng) | 2.485.447 | 2.593.677 | 3.407.845 | 5.209.343 |
Tỷ suất LN/DT (%) | 8,6 | 6,3 | 6 | 7,6 |
Số DN lãi | 117 | 160 | 194 | 279 |
Số tiền lãi (triệu đồng) | 3.584.009 | 3.893.357 | 4.604.053 | 7.662.267 |
Số DN lỗ | 86 | 139 | 192 | 362 |
Số tiền lỗ (triệu đồng) | 1.098.562 | 1.299.680 | 1.196.207 | 2.452.924 |
Chỉ tiêu | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 |
Doanh thu (DT) (triệu đồng) | 98.296.599 | 124.870.208 | 167.762.052 | 187.755.410 |
Lợi nhuận (LN) (triệu đồng) | 6.404.274 | 10.887.197 | 11.816.489 | 10.622.495 |
Tỷ suất LN/DT (%) | 6,5 | 8,7 | 7 | 5,6 |
Số DN lãi | 361 | 426 | 507 | 508 |
Số tiền lãi (triệu đồng) | 9.852.205 | 15.689.665 | 18.134.887 | 17.896.583 |
Số DN lỗ | 612 | 690 | 766 | 804 |
Số tiền lỗ (triệu đồng) | 3.447.931 | 4.802.467 | 6.318.399 | 7.274.088 |
Có thể bạn quan tâm!
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Đối Với Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ
- Khó Khăn Và Thách Thức Đặt Ra Đối Với Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ
- Qui Mô Dự Án Fdi Tại 3 Vùng Kttđ Của Việt Nam Giai Đoạn 2003-7/2012
- Tỷ Trọng Gtsxcn Khu Vực Fdi So Với Gtsx, Gtsxcn Vùng Kttđ Bắc Bộ Giai Đoạn 2006 -2011
- Th Ực Trạng Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Tri Ển Bền V Ững V Ề Môi Trường Vùng Kinh T Ế Trọng Điểm B Ắc Bộ
- Đánh Giá Chung V Ề Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hư Ớng Phát Triển Bền Vững Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ
Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.
Nguồn: [89]
Tại Hà Nội, số liệu bảng 3.1 trên đây cho thấy, số lượng các doanh nghiệp có vốn FDI bị thua lỗ trên địa bàn thành phố trong giai đoạn 2004 -2011 có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Năm 2003, có 86 doanh nghiệp bị thua lỗ thì đến năm 2011, số lượng doanh nghiệp này là 804, tăng gấp 9,3 lần so với năm 2003. Số tiền lỗ của các doanh nghiệp này cũng không ngừng tăng lên qua các năm. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến nguồn thu thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội và vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Từ năm 2007 đến 30/7/2012, qua thực hiện thanh tra kiểm tra hơn 707 doanh nghiệp FDI, cơ quan quản lý thuế thành phố Hà Nội đã phát hiện nhiều doanh nghiệp
vi phạm Luật quản lý thuế; tiến hành truy thu, phạt và nộp ngân sách nhà nước số tiền là 561.205 triệu đồng; giảm lỗ, giảm khấu trừ 1.454.513 triệu đồng; truy hoàn 4.188 triệu đồng.
Qua công tác quản lý, thanh kiểm tra thực tế của Cục Thuế Thành phố Hà Nội cũng cho thấy bên cạnh các doanh nghiệp có vốn FDI thua lỗ thật sự còn có doanh nghiệp kê khai không trung thực dẫn đến “lỗ giả, lãi thật”. Theo thống kê, các doanh nghiệp lỗ liên tục trong nhiều năm chủ yếu tập trung ở một số các ngành nghề: Sản xuất phụ tùng ô tô, xe máy (bao gồm cả sản phẩm cơ khí và điện tử…); sản xuât lắp ráp gia công hàng điện tử, sản xuất, thi công lắp dựng các câu kiện bằng thép. Đặc biệt có một số ngành sản xuất mang tính độc quyền như sản xuất các thiết bị quang học chính xác, sản xuất chân tay giả cũng liên tục thua lỗ, có năm có lãi nhưng cũng chỉ đủ để bù lỗ (chưa bao giờ phát sinh thuế thu nhập doanh nghiệp); Gia công trong các lĩnh vực: chế tác vàng bạc đá quí, gia công may mặc, gia công các sản phẩm cơ khí, gia công kim loại, gia công in ....
Tại Quảng Ninh, nhiều doanh nghiệp có vốn FDI cũng đang vào “tầm ngắm” của cơ quan quản lý thuế. Điển hình là Công ty EVERBEST Việt Nam - doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Hồng Kông - Trung Quốc, chuyên gia công giày các loại tại Quảng Ninh liên tục thua lỗ kể từ khi thành lập (2003) cho đến nay. Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra với Công ty TNHH Ngọc Trai Phương Đông, một doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Nhật Bản, hoạt động trong lĩnh vực nuôi ngọc trai. Sản phẩm của Công ty sản xuất ra thường được bán cho một công ty ở nước ngoài, song từ khi thành lập (năm 2000) đến nay, doanh nghiệp này liên tục báo cáo lỗ. Cả hai doanh nghiệp trên đều thuộc diện bị thanh tra chống chuyển giá trong 2 năm 2011, 2012 [106].
Tại Hải Dương, từ đầu năm 2011 đến nay, qua thanh tra 99 doanh nghiệp, ngành thuế tỉnh đã phát hiện 18 doanh nghiệp lỗ và có dấu hiệu chuyển giá. Đồng thời đã điều chỉnh giảm lỗ hơn 117 tỷ đồng, giảm khấu trừ hơn 700 triệu đồng, đề nghị truy thu hơn 4 tỷ đồng, kiến nghị ra quyết định xử phạt hơn 2 tỷ đồng.
Ngành thuế tỉnh cũng đã kiểm tra việc thực hiện chính sách thuế tại 850 doanh
nghiệp, phát hiện 77 doanh nghiệp lỗ và có dấu hiệu chuyển giá; điều chỉnh giảm lỗ hơn 18 tỷ đồng, giảm khấu trừ hơn 160 triệu đồng, tổng số thuế truy thu và phạt hơn 1,7 tỷ đồng. Các doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá chủ yếu là doanh nghiệp có vốn ĐTNN [110].
Ngoài ra, bên cạnh vấn đề chuyển giá, lỗ giả lãi thật, khoản nợ xấu của các doanh
nghiệp FDI đối với ngân hàng cũng lên tới 80 triệu USD. Hiện cả nước có 22 dự án của doanh nghiệp FDI không có khả năng trả nợ ngân hàng, nằm rải rác tại 12 địa phương
và chủ yếu tại Hải Dương và Phú Thọ. Cụ thể, tại Hải Dương, năm 2005, UBND tỉnh chấp thuận cho Kenmark (Đài Loan) đầu tư 500 triệu USD vào khu công nghiệp Việt Hòa. Kenmark đã được các ngân hàng như SHB chi nhánh Quảng Ninh, BIDV chi nhánh Thành Đô, Habubank chi nhánh Bắc Ninh... cho vay khoảng 50 triệu USD. Năm 2010, khi chủ đầu tư bỏ về nước do xảy ra tranh chấp trong thực hiện dự án, khoản vay của Kenmark trở thành nợ xấu đáng kể tại các ngân hàng [107].
- Đóng góp của khu vực FDI vào xuất khẩu của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐ Bắc Bộ có t ác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của vùng. Nhìn chung trong giai đoạn 2003 -2011, tỷ lệ giá trị xuất khẩu/vốn FDI thực hiện luôn gia tăng ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng. Trong đó, khu vực FDI trên địa bàn tỉnh Hải Dương có tỷ lệ giá trị xuất khẩu/vốn thực hiện cao nhất là 15,91. Điều này cho biết cứ 1000USD vốn FDI thực hiện sẽ tạo ra 15.900 USD giá trị xuất khẩu.
Biểu đồ 3.16: Giá trị xuất khẩu so với vốn thực hiện của khu vực FDI tại một số tỉnh, thành phố vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2011
Đơn vị tính: 1000USD
20,000,000
17,918,000
18,000,000
16,000,000
14,000,000
12,000,000
10,000,000
8,000,000
7,299,872
6,000,000
4,000,000
5,780,000 5,808,419
4,232,667
2,437,656
2,000,000
0
1,518,241
853,290
1,503,300
266,000
Hà Nội Hải Phòng Vĩnh Phúc Hải Dương Bắc Ninh
GTXK của khu vực FDI
Vốn FDI thực hiện
Nguồn: Xử lý của tác giả từ số liệu Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố từ 2003-2011
Tuy nhiên, giá trị nhập khẩu của khu vực FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ còn khá cao; sản xuất kinh doanh của khu vực FDI còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu và bán thành phẩm từ nước ngoài, do đó, chưa tạo được mối liên kết trong sản xuất giữa DNTN với doanh nghiệp có vốn FDI.
Biểu 3.17 dưới đây cho thấy, khu vực FDI tạ i hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐ Bắc Bộ đều có giá trị nhập siêu cao. Trong giai đoạn 2003 -2011, khu vực
FDI trên địa bàn thành phố Hà Nội có giá trị xuất khẩu cao nhất so với các tỉnh, thành phố còn lại trong vùng KTTĐ Bắc Bộ, nhưng lại cũng có giá trị nhập khẩu rất cao 22.365.895 nghìn USD, giá trị nhập siêu là 4.425.895 nghìn USD.
Biểu đồ 3.17: Giá trị xuất nhập khẩu, nhập siêu của một số tỉnh, thành phố vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2011
Đơn vị tính: 1000USD
25,000,000
22,365,895
20,000,000 17,940,000
15,000,000
10,000,000
7,892,840
5,808,419
4,425,895
8,082,485
7,299,872
7,959,798
5,644,829
5,031,720
5,000,000
4,232,667
2,084,421 2,437,656
799,053
659,926
0
Hà Nội
Hải Phòng
Vĩnh Phúc
Hải Dương
Bắc Ninh
Giá trị XK của khu vực FDI
Giá trị NK của khu vực FDI
Nhập siêu của khu vực FDI
Nguồn: Xử lý của tác giả theo số liệu của Niên giám thống kê từ 2003-2011 và [89]
Hàng hoá nhập khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp có vốn FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ là nguyên, nhiên vật liệu và bán thành phẩm mà trong nước chưa có hoặc không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đối với h oạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI. Các sản phẩm nhập khẩu bao gồm: sắt, thép các loại; nguyên liệu sản xuất giày dép; nguyên liệu sản xuất hàng may mặc (Hải Phòng); máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên nhiên vật liệu (Vĩnh Phúc);... Điều này chứng tỏ mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn chưa mạnh. Doanh nghiệp trong nước quá yếu, chưa sản xuất được các mặt hàng nguyên liệu đáp ứng được chất lượng và chủng loại cho các doanh nghiệp FDI với giá cả cạnh tranh.
- Đóng góp của khu vực FDI vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng KTTĐ Bắc Bộ với cơ cấu vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (xem biểu đồ 3.3 và biểu đồ 3.4), chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổ ng vốn đầu tư xã hội của vùng, đã góp phần tác động mạnh đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế vùng KTTĐ Bắc Bộ theo hướng CNH trong những năm qua.
+ FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở vùng KTTĐ Bắc Bộ:
GTSXCN của khu vực FDI đã liên tục gia tăng trong giai đoạn 2006-2011. Nếu như năm 2006, GTSXCN của khu vực FDI đạt 59.713 tỷ đồng, thì đến năm 2009, GTSXCN của khu vực FDI đạt 140.325 tỷ đồng, tăng gấp 2,3 lần so với năm 2006. Năm 2011, GTSXCN của khu vực FDI đạt 388.053 tỷ đồng, tăng gấp 6,5 lần so với năm 2006 (xem biểu đồ 3.18). Tốc độ gia tăng GTSXCN của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ gia tăng GTSXCN của vùng KTTĐ Bắc Bộ. Năm 2007, tốc độ gia tăng GTSXCN của khu vực FDI là 51,09% và tốc độ gia tăng GTSXCN của vùng KTTĐ Bắc Bộ là 43,77%. Các con số lần lượt là 39,83% và 34,94% (năm 2008); 63,06% và 13,48% (năm 2010) và 69,59% và 45,12% (năm 2011).
Biểu đồ 3.18: GTSXCN khu vực FDI so với GTSX, GTSXCN vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2006 -2011
Đơn vị tính: tỷ đồ ng
1,200,000
1,000,000
965,792
800,000
695,785
676,230
600,000
512,365
449,307
465,979
388,053
400,000
336,416
323,645
249,867
285,198
211,346
228,819
200,000
146,999
59,713
126,161
140,325
90,222
0
2006
2007
2008
2009
GTSXCN toàn vùng
2010
GTSXCN của khu vực FDI
2011
GTSX toàn vùng
Nguồn số liệu: Xử lý của tác giả theo số liệu của Niên giám thống kê từ 2006-2011.
Với kết quả trên đây, trong những năm qua, khu vực FDI đã đóng góp đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở vùng KTTĐ Bắc Bộ theo hướng tăng tỷ trọng GTSX ngành công nghiệp. Tỷ trọng GTSXCN của khu vực FDI ngày càng tăng và chiếm 40,62% so với GTSXCN vùng KTTĐ Bắc Bộ năm 2006. Con số này lần lượt là 42,69% (năm 2007); 44,24% (năm 2008); 43,36% (năm 2009); 49,11%
(năm 2010) và 57,38% (năm 2011).