Tăng Cường Vai Trò Của Nhà Nước Và Chính Quyền Địa Phương Hà Tây Đối Với Việc Đào Tạo Và Sử Dụng Nguồn Nhân Lực


nông thôn đồng thời gắn được lao động với đất đai tài nguyên của Tỉnh. Muốn vậy cần:

- Nhanh chóng thực hiện việc giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hành lang pháp lý và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất để các dự án đầu tư của các doanh nghiệp trong, ngoài nước vào Tỉnh được thực thi có hiệu quả.

- Cho phép các tổ chức, cá nhân thuê đất lâu dài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để họ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh hình thành nên các khu công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.

- Phát triển kinh tế hộ gia đình, làng nghề nông thôn, phát triển kinh tế trang trại đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông thôn.

- Cho phép nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất (chuyển một phần hợp lý diện tích trồng lúa sang làm vườn hoặc nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao).

Hai là: đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống và tạo nghề mới, một hướng đi hiệu quả, vừa tận dụng được nguồn lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, vừa khai thác được nguồn tài nguyên phong phú đa dạng đối với tạo việc làm. Việc phát triển làng nghề ở Hà Tây không chỉ tạo việc làm cho người lao động mà còn có thể thu hút thời gian của lao động phụ góp phần tiết kiệm thời gian, tăng thêm thu nhập, giảm thiểu các tệ nạn xã hội. Muốn vậy cần ưu tiên giải quyết về vốn đặc biệt là nguồn vốn lãi xuất thấp hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết mặt bằng. Tìm kiếm mở rộng thị trường, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để bảo đảm số lượng và chất lượng tốt cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm trong các làng nghề.


Ba là: khuyến khích phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh qui mô vừa và nhỏ, bởi đây là khu vực kinh tế năng động, hiệu quả hoạt động khá cao, đóng góp đáng kể vào GDP của Tỉnh, tạo nhiều việc làm và thu hút NNL đáng kể hiện nay. Năm 2001 khu vực này đã thu hút tạo thêm việc làm cho

5.500 lao động. Năm 2002 tạo việc làm thêm cho 6.000 lao động. Năm 2003 tạo việc làm cho 7.000 lao động. Muốn vậy, Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần khuyến klhích, hỗ trợ khu vực này về vốn thông qua hình thức bảo lãnh tín dụng và vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, về thông tin kỹ thuật, mặt bằng sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng và tạo niềm tin cho các chủ đầu tư, có thể giảm thuế trong thời gian đầu khi sản xuất các mặt hàng mới có hiệu quả kinh tế cao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Bốn là: đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Trong nhiều năm qua xuất khẩu lao động được coi là một định hướng quan trọng, mũi nhọn trong việc tạo việc làm cho hiệu quả cao, nhưng hiện nay xuất khẩu lao động đang gặp khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu mà tỉnh đề ra năm 2004 (1.200 lao động). Số lao động đưa sang nước bạn làm việc còn ít, không tương xứng với tiềm năng lao động rất dồi dào của tỉnh, trong khi đó nhu cầu lao động ở nước bạn vẫn rất lớn (như Hàn Quốc, Đài Loan). Vì vậy, cần tập trung tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nhận xuất khẩu lao động, nâng cao sự hiểu biết về phong tục tập quán, khả năng giao tiếp ngoại ngữ, nâng cao ý thức chấp hành các nguyên tắc trong hợp tác lao động cho người lao động. Hình thành và hoàn thiện mạng lưới chuyên đào tạo NNL cho xuất khẩu. Tập trung đào tạo, chuẩn bị NNL có tay nghề và chất lượng cao (bởi trong số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài mới chỉ có 4% lao động chất lượng cao còn lại là lao động phổ thông) đáp ứng thị trường lao động của khu vực và thế giới, nhất là các ngành xây dựng, điện tử, tin học. Mặt khác cần thực hiện tốt chính sách cho vay vốn thế chấp để người


Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây - 11

lao động có cơ hội đi xuất khẩu lao động với mức chi phí thấp, duy trì giữ vững thị trường truyền thống và xây dựng các thị trường mới.

3.2.5. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực

Việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng tác giả đề tài chỉ đề cập tới các vấn đề sau:

Một là: tạo lập duy trì mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo, đơn vị tuyển dụng lao động và việc làm. Để phát huy có hiệu quả NNL cần phải đảm bảo sự thống nhất trên cả ba mặt: đào tạo - sử dụng - việc làm. Việc gắn đào tạo với sử dụng trong cơ cấu thống nhất sẽ giúp cho việc xác định đúng qui mô, cơ cấu NNL đào tạo phù hợp với yêu cầu sử dụng để phát triển KT - XH khắc phục tình trạng thừa, thiếu, bất hợp lý và lãng phí trong đào tạo, sử dụng NNL. Muốn vậy phải điều tra xác định nhu cầu việc làm, nhu cầu sử dụng nhân lực được đào tạo, phải nghiên cứu dự báo về xu hướng biến động của thị trường lao động, xu hướng vận động của cơ cấu lao động trong quá trình CNH, HĐH để có cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại các loại hình lao động cho phù hợp. Hà Tây có thể thực hiện theo hướng nói trên qua các nội dung sau:

- Gắn cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp:

Thông qua việc trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp và các cơ sở sử dụng lao động các nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo về qui mô và cơ cấu ngành nghề. Cách làm này vừa khắc phục được tình trạng người học chỉ theo một số ngành có lợi ích trước mắt, vừa hướng người học tự giác lựa chọn ngành nghề theo cơ cấu lao động và trình độ tỉnh có nhu cầu, vừa bảo đảm cho người học có được việc làm sau khi tốt nghiệp, vừa tạo điều kiện cho cơ sở sử dụng lao dộng tuyển được lao động cần thiết và phù hợp đảm bảo năng suất lao dộng cao. Mặt khác việc tạo mối liên thông giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp còn có thể giúp cho các trường khắc phục được những khó khăn


về tài chính, về cơ sở vật chất thực hành, thực tập trong đào tạo, nhờ có sự hỗ trợ của các đơn vị tuyển dụng lao động được đào tạo.

- Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ cho các địa phương miền núi. Việc làm này vừa góp phần quan trọng gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực qua đào tạo và tình trạng dư thừa giả tạo lao động qua đào tạo trong Tỉnh, vừa tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế miền núi. Tuy nhiên cũng cần phải nhận thức rằng gắn đào tạo với sử dụng và việc làm không có nghĩa là người học sau khi tốt nghiệp ra trường là nghiễm nhiên có việc làm ngay do được phân công mà là nhằm điều chỉnh để tránh sự mất cân đối gữa cung - cầu lao động một cách tổng thể. Từ đó giảm thiểu lãng phí trong đào tạo NNL và giảm sức ép việc làm đối với nền kinh tế của tỉnh. Còn người học sau khi học xong có được việc làm hay không họ phải đối mặt với những thử thách trên thị trường lao động tuỳ thuộc vào khả năng họ đáp ứng được yêu cầu về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp do các doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng đưa ra qua các kỳ dự tuyển.

Hai là: khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của người lao động. Thực tế hoạt động sản xuất cho chúng ta thấy hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc chủ yếu vào cách thức tổ chức và phân công lao động, mức độ lành nghề và thái độ của người lao động đối với công việc họ được đảm nhiệm. Vì vậy bên cạnh việc đầu tư đào tạo, đào tạo lại để người lao động có trình độ chuyên môn thích ứng, các đơn vị sử dụng lao động cần có biện pháp kích thích đối với họ để khơi dậy và phát huy tính tích cực của người lao động. Song khích thích người lao động bằng cách nào? có nhiều hình thức tác động nhưng trong phạm vi đề tài này tác giả đề cập tới biện pháp tác động bằng lợi ích kinh tế. Nếu xuất phát từ góc độ nhu cầu lợi ích kinh tế thì thu nhập thấp từ công việc đang làm là nguyên nhân dẫn đến sự lãng phí nhân lực. Tình trạng làm việc


chung thì "cầm chừng..." để giữ chỗ làm còn tâm sức trí tuệ dồn cho việc làm phụ thêm bên ngoài không phải là ít ở nhiều cơ quan xí nghiệp của Hà Tây. Nhiều lao động do thu nhập thấp phải từ bỏ công việc chuyên môn được đào tạo để làm những việc khác có thu nhập cao hơn, mặc dù biết là công việc đó về lâu dài không được ổn định. Vì vậy tạo điều kiện để người lao động có việc làm, có thu nhập cao thậm chí có thể làm giàu từ chính nghề nghiệp của mình được coi là có ý nghĩa hơn cả và phù hợp với xu thế hiện nay để nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực của người lao động. Nhưng trong thực tế chúng ta không thể ngay lập tức nâng cao thu nhập cho người lao động được bởi nó không thể vượt quá sự đóng góp của lao động vào hiệu quả của nền sản xuất. Do đó việc cần làm là bên cạnh việc tạo ra việc làm thường xuyên cho người lao động, đồng thời làm cho người lao động nhận thức được rằng thu nhập của họ do chính sự đóng góp lao động của họ quyết định. Từ đó có thước đo phân phối theo kết quả lao động và phân phối theo giá trị sức lao động có tính đến cung - cầu sức lao động để trả công tương xứng với sự công hiến của người lao động. Đồng thời sử dụng các hình thức khen thưởng bằng vật chất như: tiền thưởng, phiếu du lịch, tài trợ toàn phần cho một khoá học bồi dưỡng nâng cao tay nghề đối với những người có ý thức trách nhiệm cao và hoàn thành xuất sắc công việc được giao, hoặc khen thưởng đối với con em người lao động khi đạt thành tích học tập cao, hoặc có thể tài trợ cho những sinh viên là con của người lao động khi họ theo học các chuyên ngành phù hợp hay liên quan đến hoạt động sản xuất của xí nghiệp để có thể thu nạp họ trong tương lai. Những việc làm đó tác động trực tiếp đến người lao động làm cho họ có ý thức trách nhiệm cao hơn với công việc và tạo ra được năng suất lao động cao hơn.

3.2.6. Hình thành và phát triển thị trường lao động


Thị trường lao động với nghĩa chung nhất là một hệ thống trao đổi giữa người đã có việc làm hoặc tìm kiếm việc làm (cung lao động) với những người sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động (cầu lao động).

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến cấu trúc việc làm và làm cho cấu trúc việc làm luôn biến động; thay đổi. Tức là cầu lao động biến đổi và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu về cung lao động. Tính linh hoạt này đặt ra cho đào tạo một mặt phải tập trung mọi nỗ lực trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động phù hợp với yêu cầu tuyển dụng, mặt khác phải thường xuyên điều chỉnh chương trình, nội dung đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có khả năng chuyển đổi để bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao hơn của người lao động đối với các điều kiện việc làm khác nhau (như điều kiện áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao). Như vậy, cơ sở đào tạo phải tổ chức đào tạo nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động mới tạo ra được khả năng cạnh tranh cao cho sản phẩm của mình. Còn người học muốn có cơ hội và hy vọng tìm kiếm việc làm họ phải nhận biết, phân tích thông tin thị trường lao động, xác định khả năng của mình để quyết định theo học nghề gì? cấp trình độ nào cho phù hợp.

Trên thị trường lao động, người lao động tìm kiếm việc làm thông qua quan hệ thoả thuận với người sử dụng lao động về tiền lương, tiền công dưới hình thức hợp đồng lao động khi anh ta đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng về trình độ, năng lực. Người sử dụng lao động sẽ được đáp ứng yêu cầu tuyển dụng lao động khi anh ta đồng ý trả cho người lao động một khoản tiền và điều kiện làm việc tương xứng. Chính điều này làm cho người sử dụng lao động phải cân nhắc kỹ lưỡng khi anh ta đưa ra yêu cầu tuyển dụng lao động và phải có biện pháp quản lý, tác động tích cực để khai thác sử dụng lao động một cách hiệu quả để đảm bảo được lợi ích kinh tế. Khi thị trường lao động


được hình thành và phát triển, sự hoạt động của các qui luật kinh tế thị trường sẽ tác động tới tất cả các chủ thể như: nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động, người đào tạo lao động... làm cho việc đào tạo nhân lực phải dựa trên cơ sở cầu lao động. Việc đào tạo ai, đào tạo nghề gì, cấp trình độ nào, số lượng bao nhiêu phải do cầu quyết định. Một mặt đã làm cho đào tạo ngày càng gắn với sử dụng; mặt khác làm cho việc sử dụng lao động cũng ngày càng hợp lý và hiệu quả cao hơn, đồng thời khắc phục được lãng phí xã hội trong cả đào tạo và sử dụng nhân lực.

Rõ ràng đã đến lúc việc đào tạo và sử dụng NNL của cả nước nói chung và Hà Tây nói riêng phải tính đến việc vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường để hình thành và phát triển được thị trường lao động. Từ đó, xác lập khung pháp lý cho thị trường lao động, cung cấp thông tin cho thị trường lao động và dịch vụ việc làm sẽ làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả; nối được cung với cầu lao động, tạo điều kiện để nhiều người có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp hơn. Nhờ đó giải quyết được một cách thoả đáng mối quan hệ đào tạo - sử dụng NNL để phục vụ cho mục tiêu CNH, HĐH. Trước mắt Hà Tây cần đẩy mạnh việc tổ chức và nâng cao hiệu quả của các hội chợ việc làm, các trung tâm dịch vụ việc làm tạo cơ sở cho sự hình thành thị trường lao động

3.2.7. Tăng cường vai trò của nhà nước và chính quyền địa phương Hà Tây đối với việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

3.2.7.1. Đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo, tăng nhanh dạy nghề

Trong điều kiện hiện nay, lợi thế tương đối về lao động giản đơn đã mất dần ý nghĩa, lợi thế đã thuộc về những quốc gia nào có lực lượng lao động được đào tạo có trình độ ngang tầm với đòi hỏi của công nghệ hiện đại, vì vậy việc đào tạo NNL ở nước ta phải gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ, phải tạo ra được đội ngũ lao động phù hợp với trình độ công nghệ


hiện đại theo hướng tiếp cận nhanh với kinh tế tri thức. Như phần thực trạng đã chỉ rõ, do cơ cấu của NNL qua đào tạo ở nước ta nói chung và ở Hà Tây nói riêng đang có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học, cao đẳng

- trung học chuyên nghiệp - dạy nghề. Cho nên trong những năm trước mắt cần phải điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng mở rộng qui mô dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu về số công nhân ký thuật rất lớn hiện nay. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho việc khôi phục và phát triển dạy nghề cụ thể là:

- Phát triển và hoàn thiện hệ thống các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề để đáp ứng yêu cầu học nghề cho nhân dân. Khuyến khích các doanh nghiệp mở lớp, mở trường dạy nghề và tăng cường hệ thống đào tạo kèm cặp như thợ cả kèm thợ phụ, bồi dưỡng ngoài giờ làm việc theo chuyên ngành gắn với những thay đổi của kỹ thuật công nghệ.

- Nhà nước cần tăng dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách hỗ trợ cho các địa phương, điều chỉnh phân bố cơ cấu ngân sách theo hướng ưu tiên hơn cho lĩnh vực dạy nghề, bên cạnh đó cần khuyến khích huy động các nguồn đóng góp của xã hội cho dạy nghề, cho các quỹ khuyến công, khuyến nông. Có chính sách khuyến khích đội ngũ cán bộ trong các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, các trường dạy nghề, mở rộng qui mô nghiên cứu khoa học, gắn khoa học với sản xuất, giảng dạy với thực tiễn để nâng cao chất lượng đào tạo và thúc đẩy KT - XH phát triển.

- Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần tăng cường sự quản lý nhà nước và tăng đầu tư đối với giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề nhằm điều chỉnh những hoạt động chệch hướng để nâng cao chất lượng đào tạo, mở mang các mô hình giáo dục đào tạo mới. Có chính sách hỗ trợ về tài chính đối với việc đào tạo NNL cho vùng miền núi.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 23/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí