Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tại trung tâm đào tạo ngân hàng công thương Việt Nam - 2

3. Kiến thức kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ


4. Kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác [39, tr. 225].


Điều 5: Các chương trình, giáo trình, tài liệu sử dụng trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức:

1. Loại chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh cán bộ công chức.

2. Các chương trình tài liệu bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức:


a) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng bổ sung kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh cán bộ, công chức;

b) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.


c) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý;

Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tại trung tâm đào tạo ngân hàng công thương Việt Nam - 2


d) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch, chuyển ngạch


3. Các chương trình, giáo trình đào tạo, tài liệu bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ và kiến thức bổ trợ khác theo tiêu chuẩn ngạch [39, tr. 226].

Điều 14. Giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức bao gồm: Giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và giảng viên kiêm chức là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các bộ các ngành trung ương và địa phương [39, tr. 229].

Điều 15: Giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, trung thành với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có kinh nghiệm thực tiễn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phương pháp sư phạm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao [39, tr. 230].

Điều 17: Trách nhiệm của cán bộ công chức:


1. Cán bộ, công chức phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận, kiến thức, kỹ năng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và các kỹ năng hoạt động khác theo qui định.

2. Cán bộ, công chức đang giữ chức vụ thuộc ngạch bậc nào phải đào tạo bồi dưỡng đáp ứng các tiêu chuẩn qui định cho chức vụ và ngạch, chức danh đó.

3. Cán bộ, công chức sau khi đã được đào tạo, bồi dưỡng mà tự ý bỏ việc hoặc chuyển công tác khỏi khu vực nhà nước vì lý do các nhân thì phải bồi thường cho cơ quan, tổ chức sử dụng cán bộ, công chức các chi phí đào tạo, bồi dưỡng theo qui định của nhà nước [39, tr. 230].

Điều 18: Quyền lợi của cán bộ, công chức:


1. Cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng được cơ quan bố trí thời gian và kinh phí theo chế độ qui định.

2. Trong trường hợp cán bộ, công chức theo nguyện vọng cá nhân mà được cơ quan có thẩm quyền cử đi đào tạo, bồi dưỡng thì được cơ quan hỗ trợ về thời gian, kinh phí tùy theo khả năng và điều kiện cho phép.

3. Trong thời gian được cử đi dự các khóa đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức được hưởng nguyên lương và các chế độ khác theo qui định [39, tr. 231].

Điều 19: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công chức thuộc các ngạch chuyên viên chính trở lên và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh... [39, tr. 231].

Điều 21: Trường (Trung tâm) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các bộ, ngành: tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, tổ chức bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý chuyên ngành cho cán bộ lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ, cấp sở... [39, tr. 232].

1.1.5. Nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác xây dựng qui hoạch, kế hoạch và các hình thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ

Qui định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức (ban hành kèm theo Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 7/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ) xác định rõ:

- Gắn qui hoạch đào tạo với sử dụng và tạo nguồn cán bộ lâu dài. Công tác xây dựng qui hoạch, kế hoạch phải được thực hiện từ dưới lên, dựa trên cơ sở của những điều kiện thực hiện và nhu cầu thực tế.

- Thường xuyên tiến hành kiểm tra tiến độ và khả năng thực hiện kế hoạch cũng như việc sử dụng nguồn kinh phí được cấp.

- Nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ của đội ngũ công chức quản lý đào tạo, trước hết là nghiệp vụ quản lý, kỹ năng và phương pháp xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch [39, tr. 204].

Điều 22. Các hình thức cơ bản tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tập trung, bán tập trung, tại chức. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu lựa chọn hình thức đào tạo, bồi dưỡng thích hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức, đảm bảo chất lượng và hiệu quả của các khóa đào tạo và bồi dưỡng [39, tr. 232].

1.1.6. Tiêu chuẩn của cán bộ quản lý kinh tế Ngân hàng công thương hiện nay


Tiêu chuẩn của một NH hiện đại là đưa công nghệ tin học, truyền thông và các công cụ NH điện tử vào hoạt động. Một hệ thống NH phát triển hiện đại, kinh doanh đa năng cung cấp các dịch vụ NH với chất lượng và hiệu quả cao phản ánh trình độ của nền kinh tế phát triển. Muốn vậy, NH phải có một đội ngũ CBQLKT giỏi chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ quản lý.

Trong đổi mới QLKT ở nước ta từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã phân định rõ hai chức năng QLKT, đó là: Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh... [9, tr. 338]. Vì vậy, CBQLKT ngành NH được phân thành:

- CBQL nhà nước về kinh tế: loại này chủ yếu ở NHNN.


- CBQL sản xuất - kinh doanh: Loại này chủ yếu ở NHTM.


Trong luận văn này, phù hợp với lĩnh vực chuyên ngành NH, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL kinh doanh tiền tệ và nhân viên nghiệp vụ (gọi chung là CBQLKT ngành NH) trong phạm vi TTĐT NHCTVN như đã trình bày ở phần đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn. Từ phân tích trên

ngoài tiêu chuẩn của một người cán bộ nói chung, của một nhà kinh doanh nói riêng thì

Tiêu chuẩn chung của CBQLKT Ngân hàng Công thương là:


- Nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng và dịch vụ NH.

- Có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ NH vì QLKT là một nghề, mỗi vị trí công việc cần có qui định về mức độ bằng cấp bắt buộc, cần được đào tạo.

- Có khả năng tư duy tổng hợp, hiểu biết về những ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan, có tầm nhìn chiến lược đối với nhiệm vụ cần thực hiện.

- Đánh giá được mức độ hiệu quả và khả năng thua lỗ, rủi ro trong hoạt động cho vay, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác thuộc trách nhiệm quản lý. Đánh giá phân tích được tình hình kinh tế - xã hội, con người và xây dựng được những biện pháp triển khai tối ưu.

- Có sức khỏe chịu đựng được những áp lực của công việc, có tinh thần tự giác trong học tập, tự chịu trách nhiệm theo chức năng nhiệm vụ được giao, thực hiện nhiệm vụ một cách tự giác, sáng tạo.

1.2. Sự cần thiết khách quan và yêu cầu mới đối với đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý Ngân hàng Công thương Việt Nam

1.2.1. Sự cần thiết khách quan đối với đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý Ngân hàng Công thương Việt Nam

* Công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH hoạt động Ngân hàng

Lênin nói về công tác giáo dục và đào tạo cho quần chúng sau khi giành được chính quyền cách mạng: "Những người lao động khát khao tri thức vì tri thức cần cho họ để chiến thắng... Tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, rằng sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức" [20, tr. 105]. Để tăng năng suất lao động dưới chế độ XHCN, Lênin đã chỉ rõ sự cần thiết phải đào tạo để: "Nâng cao trình độ học vấn và văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân" [20, tr. 301]. ở nước ta, Nghị quyết hội nghị Trung ương 3

khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ những quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình nhiệm vụ mới: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới. Văn kiện Đại hội Đảng IX nêu rõ mục tiêu, phương hướng của công tác giáo dục đào tạo trong những năm tới là: "Tạo chuyển biến cơ bản về giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước nhanh và bền vững" [5]. Công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho CBQLKT ngân hàng là nội dung quan trọng trong hoạt động NH. "Đối với một doanh nghiệp thì nhu cầu đào tạo nhân viên là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhất. Bởi vì nếu người lao động không được đào tạo, không có trình độ thì dù hệ thống máy móc và thiết bị có tinh vi đến đâu đi nữa cũng trở thành vô nghĩa" [38, tr. 203]. Mục đích của công tác đào tạo CBQLKT ngân hàng là giúp cán bộ nắm vững chuyên môn, cập nhật kiến thức mới và những kỹ năng cần thiết trong hoạt động NH bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

* Con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của một tổ chức, một doanh nghiệp

Theo C. Mác: "Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn" [26, tr. 75]. Sản xuất hàng hóa và sự phát triển kinh tế cần ba yếu tố cơ bản: Vốn, tài nguyên, con người. Hàng hóa là sản phẩm của lao động được sản xuất ra để trao đổi với nhau. Những hàng hóa là sản phẩm của lao động phức tạp - phải tốn công đào tạo, học tập, rèn luyện - là biểu hiện người lao động được đào tạo nhiều hơn, chi phí sản xuất cao hơn. Trong thời đại ngày nay vai trò của nguồn nhân lực (nhân tố con người đặc biệt là người QLKT) càng trở nên quan trọng mang tính chi phối nhiều hơn. Giáo sư, tiến sĩ Letter C.Thurow nhà kinh tế, nhà quản trị học thuộc viện công nghệ kỹ thuật Matsachuset viết: "Điều quyết định cho sự tồn tại và phát triển của công ty là những con người mà công ty đang có. Đó phải là những

con người có học vấn cao, được đào tạo tốt, có đạo đức, có văn hóa và biết cách làm việc có hiệu quả".

Giáo sư tiến sĩ Gary Backơ người được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1992 với các công trình khoa học về vốn con người đã viết: "Các công ty nên tính toán, phân chia hợp lý cho việc chăm lo sức khỏe, huấn luyện, nâng cao trình độ người lao động để đạt năng suất cao nhất. Chi phí cho giáo dục, đào tạo, chăm lo sức khỏe của nhân viên phải được xem là một hình thức đầu tư".

Giáo sư Felix Migro thì kết luận rằng: "Quản trị nhân lực là nghệ thuật chọn lựa các nhân viên mới và sử dụng các nhân viên cũ sao cho năng suất và chất lượng công việc của mỗi người đạt mức tối đa có thể được" [13].

Qua các nhận định trên chúng ta thấy tầm quan trọng của nhân tố con người đối với doanh nghiệp, vì vậy các nhà quản lý phải có cơ chế tuyển chọn, sử dụng, bồi dưỡng nhân lực một cách có hiệu quả. Từ đó yêu cầu ban lãnh đạo doanh nghiệp phải biết cách dùng người và đòi hỏi họ phải là người có tài năng thực sự, có phẩm chất đạo đức, có học vấn, có văn hóa, có nghệ thuật quản lý. Họ phải được đào tạo một cách cơ bản.

Trong lịch sử nhân loại, từ khi có nhà nước thỡ việc dựng người luôn luôn được đặt ra, nó quyết định sự thành bại của mọi chế độ chính trị, quyết định sự nghiệp của từng nhà chính trị, tướng lĩnh...

Trong hệ thống tư tưởng chính trị và văn hoá Hồ Chí Minh thỡ phộp dựng người là một bộ phận đặc sắc và quan trọng nhất.Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ sở hữu của quyền lực chính trị, con người vừa là mục đích, vừa là động lực và sức mạnh của mọi sự nghiệp chính trị. Công việc Đảng, Nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực đũi hỏi phải cú đội ngũ cán bộ, công chức tốt để thi hành công vụ. Từ quan niệm "vô luận việc gỡ đều do người làm ra", Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cú cỏn bộ tốt, việc gỡ cũng xong. Muụn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [28]. Đó là một chân lý...

Từ những quan điểm nêu trên ta thấy: Con người là yếu tố quan trọng quyết định mọi vấn đề. Chính con người sẽ quyết định sự thành công hay thất bại, phát triển hay suy thoái, giàu có hay phá sản của một quốc gia nói chung của một nền kinh tế, một ngành,

hoặc một tổ chức, một doanh nghiệp nói riêng. NHTM nói chung, NHCTVN nói riêng không phải là một ngoại lệ.

* Do xu thế phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, của quá trình toàn cầu hóa


Toàn cầu hóa về kinh tế làm cho các nguồn vốn bằng tiền như vốn ODA, FDI, nguồn vốn tín dụng, các kênh đầu tư và tài nguyên thiên nhiên, nguyên vật liệu, sản phẩm hàng hóa... từ quốc gia này chuyển sang quốc gia khác hết sức thuận lợi, thông thoáng qua quan hệ mua bán ngoại thương, xuất nhập khẩu hàng hóa. Song xét một cách tương đối, yếu tố con người (nguồn vốn nhân lực) không dễ chuyển dịch và nó trở thành nhân tố quan trọng và quyết định khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia, của mỗi doanh nghiệp. Thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển của kinh tế tri thức, vai trò của tri thức mang tính chất quyết định đến mọi hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội. "Con người muốn có tri thức thì phải thông qua đào tạo, phấn đấu, rèn luyện. Trong điều kiện đó nhân tố con người được đặt lên hàng đầu sau đó mới đến vốn, tài nguyên" [19, tr. 28]. Muốn xây dựng nền kinh tế tri thức phải có những con người tri thức. Lênin nói: Không có sách thì không có tri thức. Sách và tri thức là yếu tố quan trọng của quá trình đào tạo con người có chuyên môn, không có tri thức thì không có chủ nghĩ xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Đối với nước ta, ngành NH, trong đó có các NHTM, trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế, chịu tác động rất mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, của tri thức hiện đại, càng phải gấp rút đào tạo và đào tạo lại CBQL của ngành.

* Do vị trí của ngành NH trong nền kinh tế quốc dân


Sự ra đời của sản xuất hàng hóa do hai điều kiện là có sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất, theo V.I. Lênin thì: "Sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức kinh tế xã hội" [21, tr. 106].

Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, hình thức trao đổi trực tiếp giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau không còn thích hợp nữa, do đó cần thiết phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. "Vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì có hình thái tiền tệ của giá trị" [8, tr. 57]. Như vậy, tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và

sản xuất hàng hóa và của hình thái giá trị. Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt dùng làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, tiền tệ là công cụ để trao đổi giữa hàng hóa này và hàng hóa khác. Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mọi giao dịch bằng tiền đều thông qua trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân đó là hệ thống NH, ngân hàng trong nền kinh tế hàng hóa phát triển phản ánh nhịp sống của xã hội. Nền kinh tế quốc dân nếu được coi như một cơ thể sống thì hệ thống NH là những mạch máu chảy lan tỏa khắp mọi vùng cơ thể, mọi giao dịch thanh toán đều thông qua tiền tệ, kinh tế thị trường càng phát triển kéo theo thị trường tiền tệ cũng phát triển tương ứng làm cho vị trí của hệ thống NH đối với nền kinh tế hết sức quan trọng. Đối với nước ta kinh tế thị trường chưa phát triển cao nhưng hoạt động của hệ thống NH đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Mọi sự biến động về tiền tệ đều ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sản xuất xã hội: Sản xuất-phân phối-lưu thông-tiêu dùng và ảnh hưởng to lớn đến đời sống của hàng triệu người dân. Hệ thống NH có một mạng lưới rộng khắp đất nước đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từng bước hình thành kinh tế tri thức, thực hiện thành công đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước.

Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động phi sản xuất nhưng thông qua các kênh đầu tư của NH nó lại tạo ra cơ sở vật chất, của cải và góp phần tạo ra lợi nhuận cho xã hội. Vì vậy NH là một ngành kinh tế tổng hợp, đặc thù trong nền kinh tế quốc dân. Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt, hoạt động NH là ngành hoạt động đặc biệt, nhà nước ta xếp các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực NH là doanh nghiệp xếp hạng đặc biệt. Cho nên cán bộ làm công tác NH cần có trình độ tổng hợp phải "có tầm và có tâm" mới đáp ứng được yêu cầu của công việc. Cùng với xu thế phát triển của thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa về kinh tế, kinh tế tri thức thay dần kinh tế công nghiệp. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống NHTM trong đó có NHCTVN cũng đã và đang thay đổi về mục tiêu kinh doanh, tính linh hoạt, đa dạng trong hoạt động NH, sản phẩm, tiện ích dịch vụ NH ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ. NH là ngành kinh tế phải luôn luôn đi đầu trước những đòi hỏi của đổi mới, như vậy nó mới đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các ngành kinh tế khác.

* Do yêu cầu đổi mới hoạt động của ngành NH và các NHTM nhà nước trong quá trình đổi mới của nền kinh tế

Hoạt động NH và các tổ chức tín dụng ở nước ta hiện nay dựa trên cơ sở pháp lý cơ bản là Luật NHNN Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng. Luật NHNN Việt Nam ban hành "Để xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động NH; góp phần phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [25, tr. 44]. Luật NHNN tách biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ, chính sách tiền tệ được hoạch định và thực thi theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước ta trong giai đoạn mới đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng lành mạnh nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, kiềm chế lạm phát.

Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) nêu rõ:


Để đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa [23, tr. 104].

Ngày 26/3/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký Nghị định số53/NĐ: Chuyển hệ thống NH sang hoạt động kinh doanh. NHNN được tách ra để thành lập các NHTM quốc doanh, kinh doanh chuyên nghiệp [14]. NHCTVN được hình thành từ vụ tín dụng công nghiệp vận tải, Vụ tín dụng thương nghiệp thuộc NHNN Việt Nam [18, tr. 16].

Trong quá trình hoạt động các NHTM muốn tồn tại và phát triển phải luôn luôn đổi mới. Các nghiệp vụ NH truyền thống trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp, không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cho nên các NHTM nhà nước bắt buộc phải đổi mới hoạt động để phù hợp với cơ chế mới, chấp nhận cạnh tranh không những giữa các NHTMNN với nhau mà còn phải cạnh tranh quyết liệt với các NH nước ngoài. Cùng với xu thế phát triển của đất nước, đổi mới hoạt động của nền kinh tế đòi hỏi phải đổi mới hoạt động của ngành NH và các NHTM nhà nước trong đó có NHCTVN là một tất yếu khách quan. Muốn đổi mới trước hết phải đổi mới công nghệ NH,

kinh doanh những sản phẩm mới, đa dạng hóa dịch vụ NH, để theo kịp các nước trong khu vực và tiến tới hội nhập quốc tế, muốn vậy phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT ngân hàng để nắm vững công nghệ mới, chuyển từ lao động thủ công sang lao động tri thức sử dụng thành thạo công nghệ tin học, truyền thông, các công cụ NH điện tử, đưa tin học hóa vào hoạt động NH.

Ngân hàng là ngành kinh tế tổng hợp. Hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ NH của các NHTM là hoạt động kinh doanh rất nhạy cảm. Mọi sự biến động trong nền kinh tế, mọi sự thay đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội... đều tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Vì vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức đối với CBNV trong các NHTM phải được tổ chức thường xuyên, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động kinh doanh hiện đại và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Nhằm mục đích đưa hoạt động kinh doanh của NHTM sát thực tế, tránh được rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh tế.

* Thực trạng trình độ đội ngũ CBQL NHCT còn nhiều bất cập


Khi thành lập NHCT, "nguồn nhân lực hình thành phần lớn do lịch sử để lại, một bộ phận lao động tuyển dụng mới chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng thực tế. Số lao động dôi dư chiếm khoảng 20% tổng số lao động trong toàn hệ thống" [31, tr. 69].

Hình thành và hoạt động trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp, nay các NHTMVN chưa kịp thích ứng với kinh tế thị trường và tiếp xúc với công nghệ NH hiện đại, CBQLKT NHCT ít được giao lưu với nước ngoài. Quá trình đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, cùng với xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, yêu cầu đội ngũ CBQLKT NHCT phải làm quen với cơ chế thị trường và với nhiệm vụ mới do nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi. Qua thực tế, nhiều thành công và thất bại để lại những bài học hết sức quí báu trong hoạt động của NHCTVN.

Từ những bài học thực tế, NHCTVN xác định cần phải đào tạo và đào tạo lại CBQLKT nhằm nâng cao trình độ nhận thức, tiếp thu công nghệ NH hiện đại của thế giới, áp dụng linh hoạt vào hoạt động của NHCTVN phù hợp với hoạt động NHCT trong cơ chế thị trường, phòng ngừa rủi ro và kinh doanh có lãi. Hiện tại NHCT còn thiếu nhiều CBQLKT có trình độ điều hành, tác nghiệp của NHTM hiện đại, thừa tương đối cán bộ không đảm đương

nổi nhiệm vụ được giao. Đến nay NHCT còn thiếu rất nhiều cán bộ đại học và trên đại học ở các khâu, cấp tương ứng. Điều đó có thể xảy ra hẫng hụt lớn về nhân lực trong tương lai. Vì vậy, cần khẩn trương triển khai mô hình đào tạo hiện đại cho ngành NH, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và hội nhập với thế giới, mới có thể giải quyết vấn đề nguồn lực con người cho CNH, HĐH ngành NH trong thời gian sắp tới. Về công tác đào tạo cán bộ trong ngành NH, cơ quan cấp cao của Đảng ta đã chỉ rõ: Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ trong ngành NH khi chuyển sang kinh tế thị trường chưa được quan tâm và chỉ đạo kiên quyết, nên nhìn chung cán bộ còn yếu, có sự bất cập về trình độ quản lý kinh doanh về kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học [17, tr. 47].

Từ phân tích trên chúng ta thấy, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL NHCTVN là vô cùng cần thiết, vừa là đòi hỏi bức xúc, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa có tính chiến lược, lâu dài.

1.2.2. Yêu cầu mới đối với đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế ở Ngân hàng Công thương Việt Nam

1.2.2.1. Những đòi hỏi bức xúc đặt ra


* Đòi hỏi của khoa học - công nghệ hiện đại của ngành ngân hàng và yêu cầu của nền kinh tế tri thức

Lao động tri thức và sáng tạo là cơ sở của nền kinh tế kỹ thuật số, do vậy làm việc và học tập tất nhiên phải hội tụ vào một điểm. Khi bạn lao động tri thức tức là bạn đang học tập. Đồng thời bạn cũng phải học tập liên tục mọi nơi mọi lúc mới có thể lao động tri thức có hiệu quả. Trong nền kinh tế mới, tỷ lệ được đào tạo tăng lên mạnh, công tác và học tập đan chéo nhau tạo thành yếu tố vững chắc nhất của năng lực làm việc [40, tr. 336].

Nền kinh tế tri thức yêu cầu học tập suốt đời, cho nên doanh nghiệp phải có trách nhiệm tự đào tạo ngày càng lớn. Stan Davit và Jim Botkin đã viết trong cuốn sách: Monster under the bed (Quái vật dưới gầm giường): "Chức trách giáo dục từ xưa đã thuộc về nhà thờ, về sau chuyển sang chính phủ, ngày nay lại dần dần rơi vào tay các doanh

nghiệp, bởi vì cuối cùng, phụ trách đào tạo người làm việc tri thức phải là doanh nghiệp". Hai tác giả cho rằng:

Khi nền kinh tế nông nghiệp chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, các trường học xây gạch to lớn thay thế cho các trường học nhỏ bé ở nông thôn. 40 năm trước đây, chúng ta bắt đầu chuyển sang loại hình thái kinh tế mới. Nhưng cho đến nay ta còn chưa phát triển ra một mô hình giáo dục mới, chưa nói đến một loại trường mới cho tương lai, nó có thể không phải là trường học cũng không phải là một tòa nhà kiến trúc dùng làm phòng học [40, tr. 339].

Bởi vì nền kinh tế mới sẽ là nền kinh tế tri thức, mà đào tạo và đào tạo lại sẽ là một bộ phận của hoạt động kinh tế hàng ngày và của cuộc sống, do đó doanh nghiệp và cá nhân CBQL doanh nghiệp đều sẽ thấy rằng cần phải học tập để làm việc có hiệu quả. Muốn cạnh tranh doanh nghiệp phải trở thành trường học.

* Yêu cầu của nền kinh tế thị trường Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi hội nhập kinh tế quốc tế

CBQL được xác định như là yếu tố quyết định sự thành công trong quá trình cạnh tranh và hiệu quả của hiện đại hóa cũng như hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực NH. Trên phạm vi từng NH và toàn ngành thì nhân lực, đặc biệt là nhân tài là nguồn lực quan trọng nhất. Cạnh tranh xét cho cùng là cạnh tranh về nhân lực có trình độ cao. Vì vậy, đào tạo và đào tạo lại là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự thành công trong cạnh tranh. Do đòi hỏi của kinh tế thị trường nên bản thân NHCT vừa phải tham gia hội nhập lại vừa phải cạnh tranh ngay trong nước vừa là NHTM lớn của Nhà nước, nhưng lại còn nhiều bất cập so với yêu cầu đổi mới của ngành NH, đặc biệt là CBQLKT. Từ những lý do nêu trên công tác đào tạo và đào tạo lại CBQLKT ở NHCTVN phải đảm bảo thực hiện nhiều yêu cầu mới cơ bản.

1.2.2.2. Những yêu cầu cơ bản của đào tạo và đào tạo lại đối với CBQL của Ngân hàng Công thương

* Yêu cầu chung về đào tạo và đào tạo lại


- Có mục đích, có kế hoạch

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí