của cả nước khoảng 6 triệu người, trong đó, số công chức, viên chức có trình độ từ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ khoảng 3,8 triệu người, chiếm khoảng 63,0% trong tổng số đội ngũ công chức, viên chức của cả nước.
- Tỷ lệ công chức, viên chức cần bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ thời kỳ 2011 - 2015 khoảng 20,0%, thời kỳ 2016 - 2020 khoảng 15,0% tổng số công chức, viên chức.
- Đối với viên chức, giáo viên trong các cơ sở GDNN
+ Đến năm 2015, số giáo viên, giảng viên dạy nghề các bậc khoảng 51 nghìn người, trong đó: Giáo viên, giảng viên cao đẳng nghề khoảng 13 nghìn người; giáo viên, giảng viên trung cấp nghề khoảng 24 nghìn người; giáo viên, giảng viên sơ cấp nghề khoảng 14 nghìn người.
+ Đến năm 2020, số giáo viên, giảng viên dạy nghề các bậc khoảng 77 nghìn người, trong đó, giáo viên, giảng viên cao đẳng nghề là 28 nghìn người; giáo viên, giảng viên trung cấp nghề khoảng 31 nghìn người; giáo viên, giảng viên sơ cấp nghề khoảng 28 nghìn người [38].
Dự thảo Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đã khẳng định “Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược”; tại Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 28/5/2020, Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ những nội dung, yêu cầu cần thực hiện để phấn đấu đến năm 2030, giáo dục nghề nghiệp Việt Nam tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, đến năm 2045 tiếp cận trình độ các nước G20. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm biến chuyển không ngừng mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và thị trường lao động, đòi hỏi sự đáp ứng linh hoạt của hệ thống GDNN. Trước những kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và xã hội về đổi mới, nâng cao chất lượng GDNN, trong đó đội ngũ cán bộ quản lý GDNN là lực lượng tiên phong đi đầu trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng. Với những thách
thức, yêu cầu đổi mới hiện nay, đòi hỏi cán bộ quản lý GDNN cần phải được đào tạo bồi dưỡng để chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý. Việc tăng cường, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý GDNN có chuyên môn tốt; sáng tạo; chuyên nghiệp; hội nhập; chủ động thích ứng trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư phải xác định đây là một trong các giải pháp đột phá trong Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045[32].
3.1.3. Đào tạo bồi dưỡng đáp ứng xu hướng hội nhập quốc tế trong các cơ sở GDNN
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Đào Tạo, Bồi Dưỡng Viên Chức Trong Các Cơ Sở Giáo Dục Nghề Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk
- Đánh Giá Hoạt Động Đào Tạo, Bồi Dưỡng Viên Chức Trong Các Cơ Sở Giáo Dục Nghề Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk Giai Đoạn 2015 - 2020
- Cơ Sở Pháp Lý Về Hoàn Thiện Hoạt Động Đào Tạo, Bồi Dưỡng Viên Chức Trong Các Cơ Sở Giáo Dục Nghề Nghiệp
- Tăng Cường Công Tác Quản Lý Đối Với Viên Chức Được Cử Đi Đào Tạo, Bồi Dưỡng
- Đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 17
- Đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 18
Xem toàn bộ 153 trang tài liệu này.
Trong lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp (GDNN), sự hợp tác quốc tế đã diễn ra với nhiều hình thức và phương thức rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GDNN còn mang tính tình thế, chưa có định hướng chiến lược rõ ràng. Các chương trình, dự án hợp tác hiệu quả chưa như kỳ vọng. Góp phần nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế trong GDNN.
Ngày 27/11/2014 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Giáo dục nghề nghiệp, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Luật được thông qua với nhiều nội dung đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, như thống nhất ba cấp trình độ là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng; đổi mới tổ chức quản lý, đào tạo theo hướng đào tạo theo niên chế, tích lũy mô đun, tích lũy tín chỉ; đổi mới về thời gian đào tạo cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của người học, trong đó thời gian đào tạo trung cấp đối với những người tốt nghiệp Trung học cơ sở còn từ 1 đến 2 năm tập trung vào kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp; giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được xây dựng và phát triển chương trình đào tạo; đối với sinh viên tốt nghiệp trình độ cao đẳng sẽ được cấp bằng cao đẳng và kèm theo danh hiệu kỹ sư
thực hành hoặc cử nhân thực hành tùy vào ngành nghề đào tạo; đổi mới chính sách với cơ sở giáo dục nghề nghiệp, không phân biệt công lập và tư thục, đều được tham gia đấu thầu đặt hang đào tạo, tham gia vay vốn ưu đãi các chương trình dự án trong và ngoài nước, tham gia bồi dưỡng nhà giáo cán bộ quản lý trong và ngoài nước bằng kinh phí từ ngân sách Nhà nước; tăng cường các chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút người học; quy định rõ các chức danh đối với nhà giáo trong từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chính sách tôn vinh, kéo dài thời gian làm việc với những nhà giáo có trình độ, học hàm học vị, có tay nghề cao, phụ cấp ưu đãi đối với Nhà giáo giảng dạy tích hợp cả lý thuyết và thực hành; xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ và đặc biệt là quyền lợi của doanh nghiệp khi tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp… Những quy định mới của Luật Giáo dục nghề nghiệp, tạo cơ hội cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chủ, năng động, tổ chức đào tạo linh hoạt trên cơ sở gắn kết với doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực ở các trình độ khác nhau theo các phương thức linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động, nhất là nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành trọng điểm, vùng kinh tế động lực và hội nhập khu vực ASEAN và quốc tế.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp phát triển rộng khắp cả nước với mạng lưới 1.979 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có 395 trường cao đẳng, 545 trường trung cấp, 1.039 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, Việt Nam đang trở thành một trong những đối tác tiềm năng của quốc tế.
Để đáp ứng xu hướng hội nhập thì viên chức GDNN cần nâng cao chất lượng GDNN nói chung và năng lực viên chức, năng lực nhà giáo nói riêng, điều đó cần được thực hiện bằng những giải pháp như:
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, chế độ, chính sách về đặc thù, đãi ngộ; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng; kiểm tra, đánh giá đối với viên chức.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, Chất lượng đội ngũ nhà giáo là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng đào tạo GDNN. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo GDNN cần thực hiện song hành cả hai nhiệm vụ: Bồi dưỡng và đào tạo.Về bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo GDNN, các cơ sở GDNN cần chú trọng bồi dưỡng thường xuyên về: Trình độ chuyên môn; kỹ năng thực hành nghề; đạt chuẩn giảng dạy chương trình được nước ngoài chuyển giao; bồi dưỡng đạt chuẩn về tin học, ngoại ngữ; bồi dưỡng các nội dung về dạy học tích hợp; bồi dưỡng về phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực; bồi dưỡng về đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực.
- Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho viên chức, nhà giáo các nội dung trên, các cơ sở GDNN cần chú trọng đào tạo theo các nội dung sau:
+ Đổi mới chương trình đào tạo nhà giáo GDNN ở các trường đại học sư phạm kỹ thuật theo hướng phát triển năng lực nghề, trong đó xác định chuẩn đầu ra về năng lực mà sinh viên sư phạm kỹ thuật cần đạt được.
+ Về phương thức đào tạo: Các trường đại học sư phạm kỹ thuật đang đào tạo cả hai phương thức: đào tạo nối tiếp và đào tạo song song. Đối với đào tạo nối tiếp, thì khối kiến thức về chuyên ngành được thực hiện trước và tiếp sau đó là khối kiến thức về nghiệp vụ sư phạm; còn ở đào tạo song song cả hai khối kiến thức này được thực hiện đồng thời, đan xen nhau trong suốt quá trình đào tạo.
+ Về đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, các cơ sở GDNN cần nghiên cứu và có thể tự chế tạo thiết bị tự làm phục vụ dạy và học để nâng cao năng lực chuyên môn và nghiên cứu khoa học của nhà giáo được nâng lên.
+ Nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế nhằm phát triển đội ngũ nhà giáo GDNN. Trao đổi chuyên gia, giáo viên dạy nghề giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng quan hệ hợp tác với một số nước GDNN phát triển trong khu vực ASEAN và châu Á (như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản,…) thông qua việc đưa nhà giáo đi đào tạo ở nước ngoài, hoặc mời chuyên gia nước ngoài đến đào tạo tại Việt Nam.
+ Tăng cường gắn kết cơ sở GDNN và doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho người học được thực hành kỹ năng tại cơ sở sản xuất, dịch vụ của doanh nghiệp.
3.2. Giải pháp hoàn thiện hoat động đào tạo bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Rà soát tiêu chuẩn, điều kiện tham gia đào tạo bồi dưỡng của viên chức
Việc Rà soát tiêu chuẩn, điều kiện tham gia đào tạo bồi dưỡng của viên chức là rất cần thiết và phải bảo đảm các quy trình, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định hiện hành. Cụ thể là rà soát hoàn thiện các quy định, chế độ, chính sách về đặc thù, đãi ngộ; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng; kiểm tra, đánh giá viên chức.
Cùng với đó là quán triệt viên chức xác định rõ nhu cầu, điều kiện cá nhân trước khi đăng ký tham gia đào tạo bồi dưỡng (tránh tình trạng khi được cơ quan có thẩm quyền thống nhất cử tham gia đào tạo bồi dưỡng nhưng không tham gia); nhằm quán triệt, nâng cao nhận thức viên chức về vai trò công tác đào tạo bồi dưỡng, nhất là phải căn cứ vào tiêu chuẩn ngạch bậc của chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; vị trí việc làm; gắn quy hoạch với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và công tác sử dụng, quản lý viên chức tại cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh đó, tăng cường trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, trong việc rà soát, xác định nhu cầu đào tạo bồi dưỡng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu bồi dưỡng được phân bổ, nhất là chỉ tiêu về bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chung cho viên chức; không tự phối hợp với các cơ sở đào tạo tổ chức lớp đào tạo bồi dưỡng viên chức tại cơ quan, đơn vị khi chưa có ý kiến chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền; rà soát, chấn chỉnh đối với trường hợp viên chức tự tham gia các lớp bồi dưỡng tại các cơ sở đào tạo ngoài tỉnh khi chưa được sự chấp thuận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị.
Trường hợp viên chức tham gia đào tạo bằng nguồn kinh phí tự túc (do viên chức có nhu cầu tự bổ sung kiến thức), Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, có trách nhiệm rà soát năng lực, vị trí việc làm và quy hoạch có phù hợp với trình độ, chuyên ngành viên chức tham gia đào tạo; đồng thời, định
hướng và ưu tiên cử viên chức tham gia đào tạo tại các trường đại học đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Giải pháp này nhằm hạn chế tình trạng viên chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng chưa phù hợp với vị trí việc làm; cơ quan, đơn vị, địa phương tự liên kết (hoặc phối hợp) với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ngoài tỉnh tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng khi chưa có ý kiến chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền; viên chức (cá nhân tự túc kinh phí) chọn các trường thiếu uy tín để tham gia học tập dẫn đến hạn chế về nhiều mặt
3.2.2. Xây dựng quy chế đào tạo, bồi dưỡng đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khi xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng viên chức hàng năm cần căn cứ vào quy chế đào tạo, bồi dưỡng viên chức để thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các cơ sở GDNN chưa xây dựng được quy chế đào tạo bồi dưỡng viên chức, điều này dẫn đến khi thực
hiện hoạt động đào tạo bồi dưỡng còn chồng chéo và không có tính thống nhất
Xây dựng quy chế đào tạo, bồi dưỡng viên chức là giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho việc xác định đối tượng, điều kiện, hình thức và nội dung ĐTBD; phân cấp quản lý ĐTBD; trình tự, thủ tục giải quyết ĐTBD; kinh phí ĐTBD; trách nhiệm, quyền lợi của viên chức được cử đi ĐTBD; xử lý viên chức vi phạm,…
Vì vậy, các cơ sở GDNN cần xây dựng quy chế đào tạo, bồi dưỡng viên chức để việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng viên chức thuận lợi hơn.
Quy chế đào tạo, bồi dưỡng viên chức cần thể hiện được các nội dung cơ bản sau:
1) Thực hiện mục tiêu, nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng:
- Cập nhật kiến thức, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng và phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao;
- Đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp,
có đủ trình độ và năng lực chuyên môn đảm bảo chất lượng của hoạt động nghề nghiệp.
Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng:
- Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đơn vị sự nghiệp công lập;
- Bảo đảm tính tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng;
- Khuyến khích viên chức học tập, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ;
- Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
2) Chế độ đào tạo bồi dưỡng
- Chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 33 Luật viên chức [29].
+ Việc đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện đối với viên chức trước khi bổ nhiệm chức vụ quản lý, thay đổi chức danh nghề nghiệp hoặc nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng phục vụ hoạt động nghề nghiệp.
+ Nội dung, chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng viên chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức vụ quản lý, chức danh nghề nghiệp, yêu cầu bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng phục vụ hoạt động nghề nghiệp.
+ Hình thức đào tạo, bồi dưỡng viên chức gồm:
Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ quản lý;
Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp;
Bồi dưỡng nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng phục vụ hoạt động nghề nghiệp.
- Các Bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo chuẩn chức
danh nghề nghiệp và ban hành sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Nội vụ.
- Các Bộ quản lý chức đanh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành chịu trách nhiệm ban hành hướng dẫn thực hiện chương trình bồi dưỡng bắt buộc cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành hàng năm.
- Chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng
+ Chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp là một trong những điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm, thay đổi chức danh nghề nghiệp của viên chức;