Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư tại một số dự án trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội - 14

phố về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Nghị quyết số 09/2013/NQ-HĐND ngày 17/07/2013 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội về các biện pháp bảo đảm việc thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng kịp thời, đúng tiến độ đối với các dự án đầu tư quan trọng trên địa bàn Thủ đô (Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Thủ đô).

Quyết định số 27/2013/QĐ-UBND ngày 18/07/2013 của UBND TP Hà Nội về việc quy định chi tiết việc xác định giá đất ở, giá bán nhà TĐC làm căn cứ bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Quyết định số 6239/QĐ-UBND ngày 15/10/2013 của UBND TP Hà Nội về việc quy định trình tự, thủ tục ban hành quyết định về kế hoạch tổ chức thực hiện thu hồi đất, khảo sát, điều tra, kiểm đếm và các biện pháp thu hồi đất, giải phóng mặt bằng; ban hành quyết định phân kỳ thu hồi đất, giao đất, giải phóng mặt bằng.

Luật đất đai số 45 ngày 29/11/2013.

Nghị định của Chính phủ: số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá đất; số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

Quyết định số 23/2014/QĐ-UBND ngày 20/6/2016 của UBND thành phố Hà Nội ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội do Luật đất đai 2013 và các nghị định của chính phủ giao cho về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3.1.2. Cơ sở thực tiễn của việc đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng

Thành ủy Hà Nội vừa có Nghị quyết số 08/NQ-TU nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo. Đây được coi là đòn bẩy để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cũng như bảo đảm quyền lợi của người bị

thu hồi đất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Theo báo cáo, từ năm 2010 đến tháng 6-2016, trên địa bàn thành phố có 3.073 dự án phải thực hiện thu hồi đất; đã hoàn thành giải phóng mặt bằng 1.711 dự án, với tổng diện tích đất hơn 8.462ha; chi trả hơn 54.829 tỷ đồng tiền bồi thường, hỗ trợ cho 213.554 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và bố trí tái định cư cho 9.924 hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở.

Trong giai đoạn tới, Hà Nội đặt mục tiêu phấn đấu hoàn thành giải phóng mặt bằng khoảng 2.700 dự án (trong đó có 52 dự án, công trình trọng điểm) với diện tích thu hồi đất gần 6.000 ha, liên quan tới hơn 80.000 hộ dân, số tiền bồi thường, hỗ trợ khoảng 60.000 tỷ đồng, cần bố trí tái định cư cho khoảng 19.000 hộ dân. Đó là lượng công việc khổng lồ, bởi ngay cả trong những năm gần đây, khi chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư tương đối đầy đủ và rõ ràng, việc thực hiện thu hồi đất vẫn luôn gặp không ít khó khăn. Nhiều dự án kéo dài do khiếu kiện với nhiều nguyên nhân, khiến một số dự án kéo dài tới cả chục năm chưa triển khai được, dẫn đến lãng phí tài nguyên đất và khiến dự án đội giá nhiều lần.

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư tại một số dự án trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội - 14

Nghị quyết số 08 đánh giá, trong quá trình triển khai dự án, công tác giải phóng mặt bằng vẫn là công việc có nhiều khó khăn, phức tạp và bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Đó là: Tiến độ giải phóng mặt bằng của phần lớn các dự án, kể cả một số dự án trọng điểm còn chậm. Việc giải quyết yêu cầu tái định cư chưa đồng bộ, có mặt còn bất cập. Tình trạng khiếu nại liên quan đến giải phóng mặt bằng vẫn diễn biến phức tạp. Việc công khai, minh bạch trong cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, vận động có lúc, có dự án chưa được thực hiện sâu rộng. Thiếu các giải pháp đột phá về trình tự, thủ tục, tổ chức thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng. Nghị quyết số 08 đưa ra định hướng phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, ổn định cuộc sống cho người bị thu hồi đất, bảo đảm bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Có cơ chế, chính sách để khuyến khích người phải di chuyển chỗ ở thực hiện tái định cư tự nguyện, được tự lựa chọn hình thức tái định cư bằng việc nhận nhà hoặc nhận tiền, phù hợp với nhu cầu, khả năng của các hộ dân. Giảm dần các vụ việc khiếu kiện, không để phát

sinh “điểm nóng” và tình trạng khiếu kiện đông người do nguyên nhân thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.

Để thực hiện mục tiêu nêu trên, nhiều giải pháp đã được đưa ra. Đáng chú ý, thành phố sẽ xây dựng cơ chế, chính sách, sử dụng vốn Nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội hợp pháp để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án và giải phóng mặt bằng theo quy hoạch, tạo quỹ đất “sạch” chuẩn bị mặt bằng thực hiện các dự án. Thành phố cũng khuyến khích các hộ gia đình đủ điều kiện tái định cư được nhận hỗ trợ bằng tiền để tự lo tái định cư theo phương thức tự nguyện; đặt hàng các doanh nghiệp xây dựng nhà tái định cư theo tiêu chuẩn nhà ở để phục vụ nhu cầu tái định cư; đa dạng hình thức tái định cư, tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất được lựa chọn hình thức tái định cư phù hợp.

Đối với khu vực nông thôn ngoài vùng quy hoạch phát triển đô thị, thành phố giao UBND các huyện quyết định đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư để giao đất cho các hộ dân. Nghiên cứu, xem xét phương án xây dựng nhà ở chung cư tại các khu vực phù hợp (các khu vực nông thôn nhưng nằm trong quy hoạch phát triển đô thị đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050) để phục vụ tái định cư chung cho khu vực.

Nhìn nhận về những vấn đề này, các chuyên gia đều cho rằng đó là những chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Bởi khi thực hiện quy hoạch đi trước một bước sẽ giải quyết được những vấn đề đặt ra trong công tác giải phóng mặt bằng. Cùng với đó, phải quan tâm, chia sẻ với người dân, nhất là với những hộ phải di dời đến nơi ở mới. Nơi ở mới phải có chất lượng sống bằng hoặc tốt hơn nơi cũ. Ngoài ra, cần thực hiện tốt việc công khai, minh bạch các cơ chế chính sách, lợi ích của nhân dân trong giải phóng mặt bằng, tạo cơ sở để thực hiện giám sát, giúp người dân có đất thu hồi yên tâm thực hiện trách nhiệm của mình.

3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng

3.2.1. Giải pháp về quy hoạch kế hoạch sử dụng đất

Thành phố cũng như huyện Thanh Trì cần phải có kế hoạch sử dụng đất trong cả dài hạn và ngắn hạn. Xác định rõ mục đích sử dụng từng khu đất và có kế hoạch

sử dụng cụ thể đối với chúng. Phát triển mỗi khu đất theo định hướng phát triển chung của toàn thành phố. Khu đất cần GPMB của dự án bao gồm cả đất nông nghiệp, đất ở và đất do hợp tác xã quản lý nên khi lập phương án bồi thường rất khó khăn và còn gây nhiều thắc mắc, khiếu kiện về giá bồi thường. Do vậy, huyện cần có chính sách quy hoạch hợp lý riêng biệt các khu đất này, không để có hiện tượng chuyển đổi mục đích sử dụng đất tùy tiện. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội đồng bộ, hoàn chỉnh: các công trình công cộng, khu vui chơi giải trí cần được quan tâm phát triển đúng mức để nâng cao đời sống của nhân dân, đặc biệt vấn đề quy hoạch phát triển hệ thống đường giao thông phải được thực hiện theo kế hoạch phát triển dài hạn và với một tầm nhìn xa. Tất cả các công trình này được kiểm tra, phê duyệt kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Xây dựng kế hoạch phát triển ngắn hạn, dài hạn cho từng địa phương và cho cả nước. Tiến hành theo đúng kế hoạch đặt ra và phải phù hợp quy hoạch tổng thể. Đối với huyện Thanh Trì thì mỗi quy hoạch được duyệt cần có kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể và phải thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Ngoài ra cũng cần phải đổi mới phương pháp quy hoạch cho phù hợp với tình hình phát triển. Trong quá trình lập quy hoạch, ngoài sự tham gia của các cơ quan có thẩm quyền thì cần có sự tham gia góp ý kiến, kiểm tra giám sát của nhân dân để đảm bảo tính chủ quan, kết hợp hài hòa lợi ích của tất cả các tầng lớp trong xã hội, với mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi ích của toàn xã hội. Khi đã được sự đồng ý của nhân dân thì các quyết định thu hồi đất của Nhà nước để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội sẽ được người dân ủng hộ và công tác GPMB cũng dễ dàng hơn.

3.2.2. Giải pháp về chính sách bồi thường

Các chính sách phải tập trung giải quyết mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước và quyền của người sử dụng đất đai, mối quan hệ giữa lợi ích xã hội mà dự án đem lại và lợi ích của người có đất bị thu hồi. Thường xuyên bổ sung sửa đổi quy định về khung giá đất cho phù hợp với thực tế. Điều chỉnh mức giá đảm bảo giá đất bồi thường phù hợp với giá trị thực tế của đất sử dụng, sát với giá thị trường. Để có kế hoạch dài hạn và chủ động trong khâu giải quyết việc làm cho người lao động

thông qua các chương trình hướng nghiệp và dạy nghề, tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, cần có chủ trương nghiên cứu thành lập quỹ giải quyết việc làm để hỗ trợ học nghề khi bị thu hồi đất sản xuất, các dự án phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ trên địa bàn, ưu tiên tuyển dụng lao động tại nơi có đất bị thu hồi. Cho phép các cơ sở phải di chuyển vay vốn với mức lãi suất thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật mới. Tiếp tục chỉ đạo ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung đồng bộ về chính sách và áp dụng chính sách khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước, là nhân tố không thể thiếu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống luật đất đai nói riêng là đòi hỏi bắt buộc của Nhà nước pháp quyền.

Để thực hiện bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi nhà nước thu hồi đất, vấn đề chỉnh sửa và ban hành khung chính sách bồi thường cho các hộ dân (như hỗ trợ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tạm cư, hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm…), cơ chế chính sách TĐC cần phải được sớm tiến hành nếu không nó sẽ tạo ra sự mâu thuẫn trong Luật đất đai, gây bất lợi, ảnh hưởng tới tiến độ GPMB. Đồng thời với việc sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước, các cấp chính quyền cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết cụ thể phù hợp với thực tế công tác GPMB.

3.2.3. Phát triển, nâng cao trình độ, trách nhiệm đội ngũ cán bộ

Hệ thống văn bản, chính sách phục vụ công tác bồi thường, GPMB ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn những trường hợp cán bộ làm công tác bồi thường có năng lực kém hoặc cố ý vận dụng chính sách chưa phù hợp khiến người dân bức xúc. Thành viên hội đồng bồi thường GPMB còn hạn chế cả về số lượng và trình độ. Có người là cán bộ không chuyên nghiệp, thiếu kiến thức nghiệp vụ về chính sách bồi thường GPMB trong khi đó việc tính toán bồi thường GPMB rất phức tạp. Vì vậy việc sơ xuất trong kiểm kê, đo đạc, áp giá là khó tránh khỏi. Để đảm bảo cho việc hoàn thiện khung pháp lý cùng với các chính sách liên quan tới công tác GPMB, bên cạnh đó để đưa ra được một phương án bồi thường

thỏa đáng thì cần đội ngũ cán bộ phải có đủ năng lực và trình độ chuyên môn. Đối với bộ máy quản lý: Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu có tính quyết định đến công tác bồi thường GPMB. Bộ máy quản lý phải đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương, phải phân công, phân cấp rõ ràng, quy định quyền hạn cụ thể cũng như trách nhiệm của các ngành, các cấp tránh tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đồng thời, phải có sự phối hợp chặt chẽ thường xuyên liên tục giữa các ngành trong việc thực hiện công tác bồi thường GPMB. Đối với cán bộ làm công tác bồi thường GPMB: Coi trọng công tác đào tạo, nuôi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ tinh thần, trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ. Thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ chuyên môn GPMB tại địa phương. Cần đề ra những quy định về chế độ khen thưởng phù hợp để khuyến khích động viên ý thức trách nhiệm của người cán bộ, đồng thời cũng phải có những quy định nghiêm khắc để xử lý những trường hợp cán bộ công chức lợi dụng quyền hạn, chức vụ để mưu lợi riêng hoặc trường hợp cán bộ thiếu ý thức trách nhiệm.

Các phòng chức năng cần tích cực tham mưu cho UBND huyện trình UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt kế hoạch làm cơ sở tổ chức thực hiện các thủ tục để tổ chức công tác đầu tư xây dựng theo quy định.

UBND Huyện và các phòng ban ngành liên quan, UBND các xã, thị trấn chỉ đạo triển khai thực hiện công tác đầu tư xây dựng dự án khi giao nhiệm vụ cho các đơn vị cần xác định thời gian cụ thể hoàn thành nhiệm vụ. Triển khai thực hiện tốt công tác giám sát đầu tư, đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư trên địa bàn huyện.

Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ đầu tư trong việc thực hiện các dự án. Thường xuyên giao ban công tác thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, tập trung tìm giải pháp tháo gỡ, đẩy mạnh việc thực hiện công tác GPMB các dự án đầu tư.

3.2.4. Nâng cao nhận thức cho người dân

Quyết định của người dân về việc bàn giao đất cho dự án chính là quyết định cuối cùng và quan trọng nhất ảnh hưởng đến tiến độ công tác GPMB. Nhiều dự án

do người dân thiếu hiểu biết hoặc ý thức kém không chấp hành các quy định của Nhà nước, không bàn giao đất khi Nhà nước thu hồi khiến cho dự án bị chậm tiến độ gây thiệt hại cho chủ đầu tư và Nhà nước. Do vậy cần phải nâng cao nhận thức cho người dân bằng cách sau:

Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về pháp luật, về xã hội cho người dân.Tổ chức các cuộc họp để giải đáp các thắc mắc của người dân, lắng nghe ý kiến từ phía người dân. Qua đó để có thể có phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC tốt nhất.

Phát triển bền vững kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tạo mọi điều kiện để nhân dân tiếp cận với các loại hình văn hóa - nghệ thuật, các dịch vụ xã hội, các công nghệ tiên tiến hiện đại.

Áp dụng các hình thức khuyến khích đối với những người dân bàn giao mặt bằng đúng và trước thời hạn và xử phạt nghiêm khắc đối với nhưng người dân không bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, cố ý cản trở công tác GPMB. Qua đó để khuyến khích người dân tham gia tích cực và phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác bồi thường, GPMB.

Hội đồng Bồi thường GPMB huyện cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể ở địa phương đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền để người dân hiểu được mục đích của các dự án, từ đó đồng thuận, khẩn trương bàn giao mặt bằng.

3.2.5. Phát triển quỹ nhà, đất phục vụ tái định cư

GPMB khu đất ở luôn là vấn đề khó khăn và phức tạp đối với những người tham gia công tác này. Đã có nhiều dự án phải sử dụng biện pháp cưỡng chế mới thực hiện được di dân ra khỏi vùng quy hoạch. Sở dĩ như vậy, ngoài nguyên nhân về giá đền bù không thỏa đáng thì địa điểm, chất lượng khu TĐC cũng là một nguyên nhân khác khiến người dân không muốn chuyển đến nơi ở mới. Do vậy cần phải phát triển quỹ nhà, quỹ đất đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo lợi ích cho họ khi thực hiện di chuyển. Chỉ đạo UBND các xã trên cơ sở quy hoạch chi tiết đã được UBND thành phố phê duyệt, chủ động xác định quỹ đất và lập dự án xây dựng khu tái định cư phục vụ di dân GPMB các dự án trên địa bàn ở các xã

không còn quỹ đất thì phối hợp với các xã khác để triển khai thực hiện. Công tác chuẩn bị quỹ đất, quỹ nhà tái định cư phải đi trước một bước, đảm bảo đầy đủ các điều kiện để lập khu tái định cư có diện tích ở và điều kiện hạ tầng kỹ thuật bằng hoặc hơn nơi ở cũ. Các khu tái định cư phải gắn liền với khu đô thị mới, có hệ thống hạ tầng đồng bộ, tạo điều kiện hòa nhập với chính sách giữa các bộ phận dân cư. Tổ chức tái định cư bằng nhiều hình thức khác nhau; giao đất, bán nhà, cho thuê nhà, bồi thường bằng tiền cho dân tự lo nơi ở mới, tái định cư tập trung hoặc phân tán, cho phù hợp với tập quán của nhân dân từng khu vực, đồng thời phải phân loại đối tượng di dân là nông dân và các đối tượng làm nghề khác để có đối sách phù hợp. Cần nâng cao chất lượng các khu TĐC về mọi mặt như mức độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 13/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí