hạn mức không quá 30 ha, thời hạn tối đa 50 năm và được xem xét để giao tiếp nếu có nhu cầu. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất lâm nghiệp được hưởng các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Các tổ chức (lâm trường quốc doanh) không có quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất. Đất trồng RSX không sử dụng trong 24 tháng liền sẽ bị thu hồi. Luật cũng quy định cấp có thẩm quyền được quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, cá nhân hộ gia đình.
- Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994 về giao đất lâm nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp quy định: đất lâm nghiệp đã được giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được hưởng các quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, kế thừa, thế chấp theo Luật đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời gian được nhận giao là 50 năm đối với hộ gia đình, cá nhân nhưng nếu cây có chu kỳ kinh doanh trên 50 năm sẽ được giao tiếp.
- Nghị định số 01/CP ngày 01/01/1995 của Chính phủ về giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp quy định: doanh nghiệp Nhà nước
được Nhà nước giao đất thực hiện khoán đất lâm nghiệp, thời hạn giao khoán đối với RSX theo chu kỳ kinh doanh, tiền công khoán theo thoả thuận.
- Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về việc giao
đất, cho thuê đất lâm nghiệp quy định: Nhà nước giao đất lâm nghiệp quy hoạch để xây dựng, phát triển RSX không thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông, lâm nghiệp với hạn mức đất không quá 30 ha và thời hạn 50 năm, nếu trồng cây lâm nghiệp có chu kỳ trên 50 năm, khi hết hạn vẫn được Nhà nước giao tiếp để sử dụng. Nghị định này còn quy định: Nhà nước cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất lâm nghiệp quy hoạch phát triển RSX với thời hạn không quá 50 năm, trường hợp có nhu cầu thuê đất trên 50 năm, phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định nhưng không quá 70 năm.
Các nghị định số 02/CP (1994), 01/CP (1995), 163/CP (1999) và Luật Đất đai (sửa đổi năm 2003) đã có nhiều quy định cụ thể về giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài cũng như theo chu kỳ kinh doanh, từng bước tạo khung pháp lý vững chắc cho quyền sở hữu đất đai với các mức độ ưu đãi khác nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Diện Tích Rừng Trồng Và Rừng Trồng Sản Xuất Ở Huyện Lục Ngạn
- Đánh Giá Về Tỷ Lệ Sống Và Chất Lượng Cây Trồng
- Thực Bì Dưới Tán Rừng Thông Mã Vĩ Hỗn Giao Keo Lá Tràm Và Thông Mã Vĩ Thuần Loài.
- Ảnh Hưởng Của Các Chính Sách Đến Phát Triển Trồng Rsx Ở Huyện Lục Ngạn
- Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Thị Trường Lâm Sản Đến Phát Triển Rừng Trồng Sản Xuất Huyện Lục Ngạn
- Đánh giá thực trạng trồng rừng sản xuất tại huyện Lục Ngạn - Bắc Giang và đề xuất các giải pháp phát triển - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Chính những quy định mang tính cởi mở này đã khuyến khích, thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là rừng trồng sản xuất. Tuy nhiên, việc giao và chia đất đai manh mún như hiện nay là một trong những khó khăn không nhỏ cho mục tiêu trồng RSX tập trung, tạo sự ngần ngại cho các nhà đầu tư bởi trên thực tế khó tìm được đất đai để trồng rừng trên quy mô lớn.
* Các chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách thuế sử dụng đất:
- Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn quy định rò: Nhà nước lập các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi. Các hoạt động đầu tư vào trồng rừng, bảo vệ rừng, chế biến lâm sản, dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ lâm nghiệp (như xây dựng cầu đường, bến bãi, làm
đất, gieo ươm, cây giống,...) được xếp vào nhóm A - lĩnh vực ngành nghề cần khuyến khích. Hoạt động trồng rừng sản xuất phần lớn lại được thực hiện tại các địa phương miền núi, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn (thuộc danh mục B), vùng có
điều kiện đặc biệt khó khăn (danh mục C) nên cũng được ưu đãi. Như vậy, xét cả hai tiêu chí thì hầu hết các hoạt động đầu tư vào lĩnh vực trồng, bảo vệ RSX đều thoả mãn cả điều kiện ưu đãi về ngành nghề và ưu đãi về địa bàn. Vì vậy, được hưởng các chính sách sau đây: Miễn nộp tiền sử dụng đất, miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế sử dụng đất, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây mới là khuôn khổ pháp lý, còn việc thực thi tại các địa phương lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tiềm lực kinh tế của địa phương, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước,...
- Quyết định 264/92/CP ngày 22/2/1992 về chính sách đầu tư phát triển rừng quy định đối tượng đầu tư là các dự án phát triển rừng trồng công nghiệp (giấy, mỏ, dăm, đặc sản) với thời gian đầu tư từ trồng rừng tới tuổi thành thục công nghệ. Thời hạn thu hồi vốn và lãi đơn 1 lần vào năm khai thác chính tương đương giá trị sản phẩm khai thác hàng năm nhưng không quá 5 năm; mức lãi bằng 30 - 50% lãi suất thường (khoảng 7% năm).
+ Tín dụng ưu đãi: Mục đích chính là hỗ trợ các nhà đầu tư theo tinh thần luật khuyến khích đầu tư thương mại (sửa đổi), Chính phủ đã ban hành nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; Nghị
định số 50/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 về tổ chức hoạt động của quỹ hỗ trợ phát
triển thực hiện dưới 3 hình thức: Cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Cho vay đầu tư: áp dụng đối với các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, trong đó có các dự án trồng rừng nguyên liệu tập trung, các dự án xây dựng cơ sở chế biến lâm sản. Các dự án trồng rừng nguyên liệu, xây dựng cơ sở chế biến lâm sản tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn (danh mục B), mức vốn cho vay không quá 50% tổng mức đầu tư theo quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Đối với dự án đầu tư địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn (danh mục C), mức vốn vay không quá 70% tổng mức đầu tư theo quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Thời hạn cho vay không quá 15 năm, lãi suất cho vay tương
đương 70% lãi suất vay trung và dài hạn bình quân, khi lãi suất thị trường biến động trên 15%, Bộ Tài chính sẽ ra quyết định điều chỉnh. Lãi suất vay được xác định tại thời điểm ký hợp đồng đầu tiên và giữ nguyên trong suốt thời gian vay. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trung hạn, trong thời gian ân hạn chưa phải trả nợ gốc vẫn phải trả lãi, trồng rừng là 5,4%/năm và xây dựng cơ sở chế biến ván nhân tạo là 3%/năm (từ năm 2002).
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: được áp dụng đối với dự án trồng rừng chưa được vay đầu tư, hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Số tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được xác định bằng tổng vốn vay đã đầu tư x 50% mức lãi suất tín dụng đầu tư.
Thông tư 43/2003/TT-BTC ngày 07/05/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn trồng RSX là các loài cây gỗ quý hiếm có chu kỳ trên 30 năm thì nhà nước hỗ trợ bình quân 2 triệu đồng/ ha. Tuy nhiên, phải có dự
án và quy trình kỹ thuật được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Công văn số 95/CP-NN ngày 23/01/2003 của Chính phủ về cơ chế trồng rừng thuộc Chương trình Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng quy định từ năm 2003 Nhà nước cho vay vốn trồng rừng tối đa là 10 triệu đồng/ha với lãi suất thương mại, thí điểm hỗ trợ 1 - 1,5 triệu đồng/ha cho một số hộ.
Bảo lãnh tín dụng đầu tư: Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự
án trồng rừng nguyên liệu tập trung nhưng chưa được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư,
không được vay hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển. Chủ đầu tư muốn được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện: đã được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay và có văn bản yêu cầu bảo lãnh; được Quỹ hỗ trợ phát triển chấp thuận phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay, phải có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh.
Đối với chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp nhà nước, khi được bảo lãnh, ngoài việc dùng tài sản hình thành bằng vốn vay để bảo đảm cho bảo lãnh, phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn được bảo lãnh.
+ Tín dụng thương mại:
- Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn và một số văn bản khác quy định: Đối với hộ gia đình sản xuất lâm nghiệp các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay đến 10 triệu đồng, với hộ gia
đình làm kinh tế trang trại lâm nghiệp, ngân hàng cho vay đến 20 triệu đồng, người vay không phải thế chấp tài sản, chỉ nộp kèm theo đơn xin vay vốn, bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của chính quyền
địa phương về diện tích đất đang sử dụng không có tranh chấp.
- Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993 (SDĐNN) và nhiều văn bản khác hướng dẫn thi hành luật trên quy định: mức thuế suất là 4% giá trị sản phẩm khai thác đối với các loài cây lấy gỗ và cây lâu năm thu hoạch 1 lần.
- Thông tư số 09/2002/TT-BTC ngày 23/1/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc miễn, giảm thuế SDĐNN từ năm 2002 theo Quyết định số 199/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ quy định: đối tượng được miễn thuế SDĐNN bao gồm hộ gia đình, doanh nghiệp có diện tích đất trồng rừng tại các xã thuộc Chương trình 135 của Chính phủ, các hộ thuộc diện nghèo. Đất trồng RSX tại các vùng không thuộc Chương trình 135, không phải là các hộ nghèo chỉ được giảm 50% thuế SDĐNN, nghĩa là phải chịu mức thuế suất là 2% giá trị sản phẩm khai thác.
- Quyết định số 661/TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã định hướng từ năm 1998 đến năm 2010, trồng mới 2 triệu ha rừng nguyên liệu công nghiệp giấy, ván nhân tạo, gỗ trụ mỏ, rừng gỗ quý
hiếm. Một số văn bản khác cũng đã có quy hoạch vùng nguyên liệu giấy, vùng nguyên liệu gỗ trụ mỏ,...
- Nghị định số 09/2000/NQ-CP ngày15/6/2000 của Chính phủ về chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhấn mạnh tới việc phát triển các loại cây làm nguyên liệu giấy, ván gỗ nhân tạo (tre, keo, thông, bạch đàn,…), các cây lấy gỗ và cây làm nguyên liệu để chế biến sản phẩm thủ công, mỹ nghệ.
Các chính sách kể trên tuy đã đưa ra những ưu đãi như miễn giảm tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất, miễn nộp thuế sử dụng đất,… nhưng dường như chưa đủ bởi những cản trở về vốn cũng như lãi suất tiền vay, hạn mức và thời gian vay, thủ tục vay,… do
đó việc đầu tư vào công nghệ, đặc biệt là thâm canh còn ít được chú trọng hoặc bị cắt xén công đoạn.
* Các chính sách về khai thác, vận chuyển và thị trường lâm sản:
- Quyết định số 136/CP ngày 31/7/1998 sửa đổi một số quy định về thủ tục xuất khẩu gỗ lâm sản có quy định: Chủ rừng khi khai thác rừng chỉ cần báo với UBND xã nếu dùng tại chỗ; báo với kiểm lâm nếu mục đích là thương mại. Việc vận chuyển gỗ rừng trồng của các hộ chỉ cần giấy xác nhận của kiểm lâm, nếu là doanh nghiệp cần thêm hoá đơn tài chính về bán hàng.
- Quyết định 661/98/CP, tại phần chính sách hưởng lợi và tiêu thụ sản phẩm
đối với rừng trồng sản xuất có quy định: hộ chủ rừng có quyền quyết định thời điểm và phương thức khai thác; mọi sản phẩm khai thác được tự do lưu thông. Việc chế biến, xuất khẩu sản phẩm từ rừng trồng đã qua chế biến được khuyến khích; trường hợp cơ sở trong nước không sử dụng hết nguyên liệu hoặc chưa đủ điều kiện xây dựng cơ sở chế biến được xuất khẩu sản phẩm nguyên khai.
- Chỉ thị số 19/TTg ngày 16/7/1999 về biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ gỗ rừng trồng: Khuyến khích đẩy mạnh sử dụng, tiêu thụ, xuất khẩu gỗ rừng trồng.
- Quyết định số 80/02/TTg ngày 24/6/2002 về khuyến khích tiêu thụ nông sản (bao gồm lâm sản hàng hoá): Khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ lâm sản với người sản xuất nhằm gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ lâm sản hàng hoá. Hộ sản xuất được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất trong góp vốn, cổ phần, liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh xuất nhập khẩu lâm sản.
- Quyết định 160/TTg ngày 4/9/1998 quy hoạch ngành giấy đến năm 2010 và QĐ149/98/TTg ngày 21/8/1998 quy hoạch vùng gỗ mỏ hoàn chỉnh thêm quy hoạch các vùng sản xuất lâm sản hàng hoá tập trung, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng nguyên liệu.
- Quyết định 40/2005/BNN ngày 7/7/2005 về ban hành Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác quy định:
- Với rừng trồng sản xuất tập trung của tổ chức Nhà nước bằng vốn ngân sách, vốn viện trợ không hoàn lại: việc xác định tuổi khai thác và cấp giấy phép khai thác do Sở Nông nghiệp hoặc công ty, tổng công ty quyết định; chủ rừng tự quyết định phương thức khai thác; gỗ khai thác được tự do tiêu thụ, lưu thông.
- Với rừng trồng, gỗ vườn, cây phân tán của tổ chức, doanh nghiệp tự bỏ vốn, chủ rừng được quyền quyết định mọi vấn đề về khai thác; nếu vay vốn từ nguồn vay
ưu đãi, việc xác định tuổi khai thác và cấp giấy phép khai thác do Sở Nông nghiệp hoặc công ty, tổng công ty quyết định; chủ rừng tự quyết định phương thức khai thác; gỗ khai thác được tự do tiêu thụ, lưu thông.
- Với rừng trồng của hộ, cá nhân, cộng đồng dân cư bằng vốn viện trợ, ngân sách, việc khai thác rừng được thực hiện theo quy định cụ thể của từng dự án và do UBND huyện ra quyết định.
Với những quyết định trên, Nhà nước đã thực sự mở cửa để người dân có thể tự do phát triển việc trồng và tiêu thụ các loại lâm sản có nguồn gốc từ RSX không những trên thị trường trong nước mà cả trong lĩnh vực xuất khẩu. Dòng nguyên liệu từ rừng trồng thực sự đã có thể nối liền từ khâu trồng cho tới khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trên thực tế đã xuất hiện nhiều mô hình liên kết sản xuất có hiệu quả giữa các cơ sở chế biến với đơn vị thu mua và vận chuyển lâm sản. Những quyết định trên cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp phần hoàn thành quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung theo hướng ổn định và bền vững sản xuất hàng hoá, gắn tạo nguyên liệu chế biến với tiêu thụ sản phẩm, đầu tư cơ sở hạ tầng cho khai thác vận chuyển. Tuy nhiên, một mối lo không nhỏ của những người trồng RSX là giá cả bấp bênh của sản phẩm do bị tư thương ép giá. Các hợp đồng liên kết hoặc giao khoán đất trồng RSX nhiều nơi bị phá vỡ do tới kỳ thu hoạch, người nhận khoán không tuân thủ tỷ lệ
ăn chia như đã ký kết mà chưa có chế tài xử phạt nghiêm khắc cũng gây tâm lý ngần ngại cho các chủ rừng.
* Các chính sách khác có liên quan:
Quyết định 187/CP về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh: Lâm trường nguyên liệu được duy trì hoạt động theo cơ chế kinh doanh, có quyền quyết định thời điểm, phương thức khai thác và có kế hoạch trồng lại rừng, lâm sản khai thác từ rừng trồng được tự do lưu thông. Tiền bán sản phẩm khai thác sau khi trả chi phí tạo rừng, khai thác, vận chuyển, tiêu thụ, được trích lập quỹ theo quy định. Nhà nước cấp lại cho lâm trường toàn bộ tiền thu nhập doanh nghiệp để
đầu tư tái tạo rừng và thực hiện công ích do UBND tỉnh phê duyệt. Nhà nước giao cho lâm trường các khoản vốn có nguồn gốc ngân sách đã đầu tư cho lâm trường trồng rừng trước đây để bổ sung vào vốn tự có của lâm trường. Nhà nước đầu tư 100% được UBND tỉnh duyệt để lâm trường xây dựng đường trục, bến bãi,… Rừng trồng sản xuất là tài sản của lâm trường, được quyền thế chấp.
- Nghị quyết số 28/TW của Bộ Chính trị ngày 16/6/2003 về tiếp tục đổi mới nông lâm trường quốc doanh: Lâm trường đang quản lý rừng và đất trồng RSX tiếp tục đầu tư thâm canh, giống mới gắn với vùng nguyên liệu và chế biến (cả về tổ chức và hợp đồng kinh tế) hoạt động theo cơ chế kinh doanh. Lâm trường có chức năng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chuyển qua thuê đất của Nhà nước và được hưởng chính sách khuyến khích đầu tư trong nước.
- Quyết định số 129/QĐ-UB ngày 12/11/2004 V/v Ban hành quy định tạm thời về quyền lợi, nghĩa vụ của hộ, cá nhân được giao thuê, khoán rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Bắc Giang quy định: khi khai thác, chủ hộ nhận khoán được hưởng 2,5% giá trị lâm sản sau khi đã nộp thuế cho 1 năm nhận khoán bảo vệ rừng, phần còn lại nộp cho bên giao khoán; nếu hộ cũng đầu tư thì phân theo tỷ lệ góp vốn và ngày công lao
động của mỗi bên quy thành tiền; nếu hộ tự bỏ vốn thì được hưởng 95% giá trị sản phẩm khai thác sau thuế, phần còn lại nộp bên giao khoán.
- Chỉ thị số 19/04/TTg ngày 1/6/2004 về một số giải pháp phát triển chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ: Đưa ra tiêu chí phấn đấu đến 2010 kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 2 tỷ USD; Khẩn trương rà soát phê duyệt quỹ rừng nguyên
liệu, chú trọng cây gỗ lớn, quý hiếm cho hàng thủ công mỹ nghệ; Lựa chọn cơ cấu cây trồng rừng phù hợp cho từng vùng; Bổ sung chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào trồng rừng và chế biến sản xuất sản phẩm đủ nhu cầu nội tiêu và ngoại tiêu.
Các quyết định, nghị định về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc doanh đã chấm dứt được một thời gian dài trồng rừng theo kế hoạch, bao cấp và hiệu quả rừng trồng thấp. Nhà nước đã giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho lâm trường, lâm trường có quyền tự quyết đối với thời điểm, phương thức đầu tư, khai thác và được tự do lưu thông sản phẩm. Tuy vậy, lâm trường vẫn chưa được tự chủ mà phải chịu sự chỉ đạo của cấp trên trực thuộc.
Quyết định 178/01/TTg, Nghị quyết 03/2000/TTg, Chỉ thị 19/04/TTg,… đã góp phần bổ sung hoàn thiện những quy định có tính nguyên tắc trong các văn bản về
đất đai, khuyến khích trang trại ngoài quốc doanh, về quy hoạch vùng cung cấp gỗ lớn, trích vốn hỗ trợ sản xuất cho các thành phần kinh tế quốc doanh. Tuy vậy, việc thực hiện vẫn còn chậm, mạnh ai nấy làm.
4.3.1.2. Nhận xét và thảo luận chung về các chính sách
Với hệ thống chính sách liên quan đến phát triển lâm nghiệp nói chung và trồng RSX nói riêng, có thể thấy rằng Nhà nước cũng đã rất chú trọng thúc đẩy phát triển rừng trồng sản xuất như: chính sách về đất đai, đầu tư và hỗ trợ vốn, chính sách về hưởng lợi, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm, thu hút mọi thành phần kinh tế kể cả đầu tư nước ngoài,...
Phải thừa nhận rằng bước đầu cũng đã có những chuyển hướng và đổi mới tích cực về cơ chế chính sách, cả về vĩ mô và vi mô như: quy hoạch vùng nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ đã tương đối định hình; công tác giao đất cho các hộ gia đình; những ưu tiên dành cho việc trồng rừng trên đất hoang hoá, đất trống
đồi núi trọc và vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn,… đã góp phần không nhỏ vào thu hút đầu tư từ các dự án nước ngoài. Các chính sách về khai thác, lưu thông và các chính sách hỗ trợ khác cũng góp phần tích cực thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động thúc đẩy phát triển rừng trồng sản xuất, từng bước xã hội hoá nghề rừng. Tuy vậy, vẫn chưa tạo được động lực đủ