VQG Tràm Chim. Khu rừng tràm ngập phèn bị phá hủy nhiều, phân tán, hiện nay còn 46,300 ha. Các loài sen–súng cùng các loài thực vật thủy sinh khác chiếm ưu thế. Đặc điểm cảnh quan thu hút du khách với LHDL sông nước, sinh thái và tham quan, một số nhà khoa học còn đến đây để tham quan, nghiên cứu.
2.5.5. Vùng đồng bằng châu thổ sông Tiền sông Hậu [II.2]
Kiểu địa hình đồng bằng ven sông, bằng phẳng, độ dốc thấp. Vùng là tập hợp của các cảnh tướng, bao gồm đảo giữa sông, bãi bồi và gờ sông, đồng bằng sau gờ sông và đồng trũng ở xa sông. Bãi bồi ven sông có thành phần vật chất gồm cát mịn hoặc bùn sét, được bồi tụ trong phạm vi của lòng sông, bị ngập nước vào mùa mưa. Thực vật tự nhiên mọc trong bãi bồi đều là thực vật ưa nước. Đất ở đây mới hình thành trên các bãi bổi. Các gờ sông đều là những dải đất cao có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước, có sườn không đối xứng: thoải về phía trong đồng và dốc hơn ở phía bãi bồi - là những khu vực đông dân cư. Cảnh quan tự nhiên đã bị thay đổi nhiều: phổ biến nhà cửa, ruộng vườn, cây ăn quả và cây công nghiệp chùa chiền. Các gờ sông đổ thoải xuống đồng bằng, khoảng 2 – 3 cm/km. Hiện tượng quyết định nhịp sống và hoạt động sản xuất của vùng là chế độ nước lũ. Vào mùa mưa, lũ lên cao vượt quá lưu lượng trung bình mùa cạn đến hơn 3 lần, tràn vào đồng vào tháng 8, mực nước lên khoảng 3-5cm/ngày, đến tháng 10 thì nước đứng. Lũ rút nhanh trong vòng một tháng sau đó. Trên địa hình cao như ở gờ sông, nước chỉ ngập sâu nhất khoảng 0,5 m, kéo dài khoảng 3 tháng, trong khi ở các khu vực thấp, nước có thể ngập sâu 1 -2m, thời gian ngập lũ cũng dài hơn, khoảng 5 – 6 tháng nên
khi quy hoạch phát triển DL cần chú ý đến hiện tượng này, biến nó thành lợi thế vùng. Vùng có 8 loại SKH: IAb, IBa, IBb(2),ICb, ICc, IDb, IDd. Nhiệt độ trung bình
>26ºC nhưng lượng mưa phân bố không đều trong vùng. Nửa phía bắc của vùng nằm trong dải ít mưa nhất của TNB, lượng mưa trung bình năm chỉ khoảng 1400 đến 1500mm, nửa phía tây lại có lượng mưa cao hơn, từ 1500 đến 1750mm/năm. PTDL sông nước, khai thác các đặc sản mùa lũ như cá linh, điên điển...Đặc điểm trên là nét độc đáo cho du lịch vùng , kết hợp với tham quan sông nước, thuận lợi cho các buổi picnic hoặc là lựa chọn thích hợp cho các trường tổ chức dã ngoại thực tế cho học sinh.
2.5.6. Vùng ven biển sông Tiền sông Hậu [II.3]
Đây là vùng của các cửa sông, là nơi diễn ra các cuộc đấu tranh hằng ngày giữa các nhân tố sông và nhân tố biển. Vùng đất mặn ven biển ngập nông, gồm các huyện duyên hải của các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long và Hậu Giang. Vùng nằm trong phạm vi 4 loại SKH IBa, IBb (2), ICb, ICc. Toàn vùng có lượng mưa vừa, mưa ít, từ 1300 đến 1750mm, riêng khu vực Sóc Trăng từ 1750 đến 2000mm. Mùa khô ở đây kéo dài 5 tháng, từ tháng XII đến tháng IV, trong đó có 03 tháng hạn (các tháng I, II, III). Tác động của dòng chảy còn lan ra mãi đến đới biển ven bờ mà giới hạn đến độ sâu 15 – 20m. Lưu lượng trên các sông cũng đạt giá trị thấp nhất vào các tháng mùa khô, làm cho mặn có điều kiện tiến sâu vào đất liền. Vấn đề hạn trong mùa khô (do đó có mặn nhiều) là khó khăn lớn. Có thể phân biệt ra hai cảnh quan chủ yếu: cảnh quan các cồn cát duyên hải và cảnh quan bãi triều. Cảnh quan đồng bằng và cồn cát duyên hải khác với cảnh quan bãi triều là ở chỗ không bị ngập triều hàng ngày. Đồng bằng là các bãi phù sa giữa các cồn cát duyên hải, nằm cao hơn mực nước triều cao hàng ngày (khoảng 3m). Địa hình bằng phẳng gần như hoàn toàn bị cắt quãng bởi các đê ngăn mặn nhân tạo. Đất của các bãi cồn này gồm chủ yếu sét vô cơ dẻo quánh nằm trên tầng đất sét hữu cơ dày. Nước ngầm có hàm lượng muối thay đổi, từ 0,11g/l, đến 3,1g/l Cl. Có nơi xuất hiện đất phèn – mặn, càng xuống dưới sâu tính chất phèn càng tăng. Các cồn cát duyên hải là dạng địa hình đặc sắc nhất của cảnh quan. Các cồn cát này phát triển nhiều nhất ở các huyện duyên hải (huyện Trà Cú): có đến 28 – 30 dải cồn song song với nhau. Thông thường làng mạc tập trung trên các cồn con các dải đất gian cồn làm lúa (trồng vườn quả). Cảnh quan bãi triều viền toàn bộ bờ biển với đặc điểm nổi bật là bị ngập triều hằng ngày. Kết hợp với nên đất được cấu tạo bằng vật liệu mịn, bùn sét, các HST RNM có điều kiện để phát triển. Tuy nhiên thành phần thực vật thay đổi ở các cửa sông khác nhau, tùy thuộc lưu lượng nước mùa cạn. Các kênh rạch phát triển thành phần cây ưa mặn và ruộng muối. Giới động vật ở các bãi triều rất phong phú. Đới biển ven bờ có nền đất tương đối bằng phẳng, có nhiều cồn cát ngầm, các thung lũng sông cổ, giàu về tài nguyên sinh vật như rong, tảo và cá các loại. Phù sa dạt về phía tây nam, đến tận mũi Cà Mau. Vùng này cần chú ý khai thác du lịch vào mùa khô, kết hợp với du lịch tâm linh, văn hóa, đặc biệt tại Sóc Trăng.
2.5.7. Vùng tứ giác Long uyên [II.4]
Cảnh quan thứ nhất trong vùng là một đồng bằng trũng trung bình từ 0,5 -1 m trên mực nước biển, nằm trong trạng thái đầm lầy. Vận động biển tiến vào thời kỳ Flandri nâng mực nước biển lên từ 4-5m đã bao phủ toàn bộ vùng.. Trong vùng cũng có những khu vực đất cao nhưng chúng nằm ở trung tâm, khó đi lại và không có người ở. Đất đai thuộc loại phèn nặng, giàu xác thực vật chưa bị phân hủy hết, thành phần cơ giới nặng, độ pH khoảng 3-4. Gần như toàn cảnh quan nằm trong dải mưa lớn nhất của TNB (từ 1.750 đến trên 2.000 mm/năm), mưa tập trung, kết hợp với nước tràn từ sông Hậu vào gây ngập úng từ 0,5m đến 1-2m tùy nơi. Trái lại trong mùa khô (XI – IV), đặc biệt cuối mùa, đất bị phơi ra ngoài trời và nứt nẻ. Các kênh đào vì thế là yếu tố nổi bật trong cảnh quan vùng này: đây là cảnh quan có chiều dài kênh đào lớn nhất TNB với tổng chiều dài các kênh lớn (có chiều rộng 20
-30m) lên đến trên 600km, nối liền sông hậu với vịnh Thái Lan, các kênh nhỏ thường nằm vuông góc với kênh lớn có tổng chiều dài hàng ngàn km. Đây là một trong các tiềm năng thu hút DK gắn với du lịch sông nước, chèo thuyền trên sông, tuy nhiên cần chú ý trong công tác quy hoạch du lịch, hạn chế vào những ngày triều cường mùa lũ sẽ gây nguy hiểm, hoặc phải trang bị kỹ các thiết bị bảo hộ cần thiết cho DK. Cảnh quan thứ hai – vừa là độc đáo của vùng vừa là của cả đồng bằng châu thổ - là cảnh quan núi đồi - là khu vực Bảy Núi. Được cấu tạo bởi đá granit và đá cát, các núi ở đây có thể có những đỉnh cao 500 -700m, nhưng gồm các đồi cao và núi sót là chủ yếu như núi Ba Thê, núi Sam (200m). Khu vực này nổi tiếng với cảnh quan đẹp và nhiều chùa chiền, lễ hội lớn của người Kmer, có thể PTDL tâm linh, văn hóa, kết hợp với DLTQ, DLST, leo núi thám hiểm. Cảnh quan ven biển gồm dải đất dọc ven vịnh Thái Lan và Hà Tiên đến dưới Rạch Giá còn đặc sắc hơn với nhiều khối núi đá vôi, đá granit và đá xâm nhập khác, chạy dài theo bờ biển, xen kẽ là đồng bằng nhỏ hẹp. Độ cao của các núi này trung bình khoảng 150 -300m như Hòn Chông 201m, Mũi Tròn 186m, Mũi Nai 108m,v.v. Đá vôi Hà Tiên có tuổi Devon và Pecmi, nơi đã bị biến chất thành đá hoa hoặc đolomit hóa. Các khối núi đá vôi còn thấy ở ngoài bờ biển Hà tiên, như hòn Phụ Tử, tạo ra quang cảnh Hạ Long thu nhỏ. Đây là nét đặc sắc riêng làm điểm nhấn khiến khu vực này được mệnh danh là “Thập vịnh cảnh”, có thể phát triển loại DLTQ, nghiên cứu ở vùng này. Vùng nằm trong phạm vi 5 loại SKH: IAa, IAb, IBb, ICc, IDb. Vùng nằm trong dải mưa nhiều
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Loại Sinh Khí Hậu Và Thành Lập Bản Đồ Sinh Khí Hậu Nam Bộ
- Các Chỉ Tiêu Phân Loại Skh Cho Du Lịch Nam Bộ Việt Nam
- Chỉ Số Khí Hậu Du Lịch Tci Tại Các Trạm Nam Bộ
- Đánh Giá Tài Nguyên Du Lịch Cho Phát Triển Du Lịch Tham Quan
- Kết Quả Đánh Giá Tổng Hợp Cho Phát Triển Du Lịch Tham Quan
- Kết Quả Đánh Giá Tổng Hợp Cho Phát Triển Du Lịch Nghỉ Dưỡng
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
của TNB từ 1750 đến 2000mm/năm, mưa chủ yếu tập trung vào các tháng mùa hè (V đến X), mưa xảy ra chủ yếu dưới dạng mưa rào, cường độ lớn. Trong các tháng khác, lượng mưa tổng chỉ khoảng dưới 100mm, bằng 5% lượng mưa cả năm.
2.5.8. Vùng trũng Tây sông Hậu [II.5]
Vùng này nằm ở phía Tây Nam của sông Hậu. Bao gồm một số huyện của các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau và các huyện phía tây nam tỉnh An Giang. Vùng là một bồn trũng do được vây bọc chung quanh bởi những khu vực đất cao, làm cho nước không tiêu thoát được nên gần như ngập quanh năm.Vùng nằm trong phạm vi 4 loại SKH IAa, IAb, IBa, IBb. Nền nhiệt độ rất nóng trung bình khoảng 26°C. Điều đó cũng có lợi là nguồn nước không thiếu lắm trong mùa khô mặc dù vùng này ít mưa hơn vùng tứ giác Long Xuyên, lượng mưa vừa trung bình 1900 mm/năm. Diện tích rộng lớn cũng gây khó khăn cho việc thiết kế những công trình thủy lợi có hiệu quả, nhất là việc tiêu thoát nước. Quá trình thành tạo trầm tích có sự tham gia của trầm tích sông, biển, đầm lầy biển Holocen (aQIV3, amQIV3). Ở đây có các dạng địa hình tương đối khác nhau: dải đất phù sa ngọt được bồi đắp phía tây nam sông Hậu tạo các dạng gờ sông, bãi bồi, cồn sông. Về phía tây có dải đất trũng nổi tiếng là vùng trũng Tây Hậu Giang - đây là bồn thoát lũ của hệ thống sông Mê Kông ra vịnh Thái Lan làm giảm mực nước ngập ở vùng hạ châu thổ. Vùng có một mạng lưới kênh đào nối liền sông Hậu với hai sông Cái Bè và Cái Lớn. Đất là đất đất phèn nhưng độ chua nhẹ hơn ở vùng Đồng Tháp và phù sa mới không nhiều chất hữu cơ. Càng đi về phía đông nam là đất mặn. Vùng thích hợp du lịch sông nước, DLTQ bưng, điền, kết hợp với tham quan vườn cây ăn trái ở hai bên bờ sông Hậu, phát triển mô hình chợ nổi trên sông.
2.5.9. Vùng bán đảo Cà Mau [II.6]
Nằm ở phía Tây bán đảo Cà Mau, kiểu địa hình trũng thấp, địa hình cao ở phía biển, thấp dần về phía nội địa, tạo thành các khu trũng, các đầm lầy, ở phần giữa U Minh là một bồn trũng với rừng tràm nửa ngập nước lợ, nằm giữa Cà Mau và Rạch Giá. Vùng nằm trong phạm vi một loại SKH: IAa, nền nhiệt rất nóng >260C có mưa rất nhiều dao động từ 2.200 mm – 3.000 mm/năm. Mùa khô ngắn chỉ khoảng 2 -3 tháng, số ngày mưa nhiều ≥ 160 ngày. Nét độc đáo của vùng này là ít chịu tác động trực tiếp của hệ thống sông. Cảnh quan là các bãi bùn triều và các đồng lầy nước
mặn ven biển, đồng trũng và đồng bằng nội địa với đất phèn nhẹ, ngập nước lợ vào
91
mùa mưa. Hình thành từ trầm tích đầm lầy biển Holocen muộn, trầm tích sông biển hiện đại. Chế độ thuỷ văn ngập nông đến ngập trung bình, chịu ảnh hưởng của thuỷ triều, khả năng thoát nước kém, nhưng mùa khô lại thiếu nước trầm trọng. Sông Cái Lớn ở phía tây bắc, sông Gành Hào ở phía đông nam là hai sông lớn dẫn mặn vào nội địa, nhiều các lạch triều lớn nhỏ. Về HST có rừng tràm U Minh; Sông Cái Tàu và sông Trèm Trẹm chia đôi khu rừng: phía bắc là U Minh Thượng và phần phía nam là U Minh Hạ. Nền đất là than bùn dày từ 2 đến 5 m, được cấu tạo bởi xác thực vật của rừng bên trên. Rừng nguyên sinh dưới 4.000 ha. Cây tràm là cây thống trị khu rừng rộng lớn này, có thân cao từ 10 đến 20m. Cá, tôm trong đầm và kinh rạch đủ loại. Khí hậu tương đối mát mẻ ôn hòa do có biển bao quanh vì vậy mùa DL lí tưởng là mùa hè kéo dài từ tháng IV đến tháng IX. LHDL đồng quê, du lịch trải nghiệm, DLST dựa vào cộng đồng rất có tiềm năng phát triển ở vùng này. DK còn có thể tham gia vào một số dịch vụ giải trí từ các hộ DL cộng đồng, trải nghiệm những hoạt động với người dân nơi đây như: xổ vuông bắt tôm, câu cua, cá, đặt lọp cua, bắt vọp, mò sò.
2.5.10. Vùng biển đảo vịnh Thái Lan [II.7]
Vùng hoàn toàn trên biển với 22 quần đảo và đảo ở ven bờ khá nhiều như hòn Minh Hoà, quần đảo Bình Trị trước Hòn Chồng, Hòn Rái, quần đảo Nam Du, quần đảo An Thới. Trong đó, Phú Quốc là một huyện – quận đảo nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo lớn nhất là Phú Quốc có diện tích 66.000 hecta - lớn nhất của Việt Nam, cách thị xã Rạch Giá 120 km. Địa hình của đảo Phú Quốc là địa hình núi được cấu tạo bằng cát kết và đá phiến. Dải núi Hàm Ninh dài trên 30 km, hình vòng cung chạy men theo rìa phía đông với những đỉnh khá cao (núi Chúa 603 m, núi Đá Bạc 945 m). Dải Bãi Dài bọc đảo về phía Tây Bắc, cao trung bình 250 -300 m. Tất cả các núi đâm ra biển những nhánh nhỏ tạo thành các mũi như mũi Dinh, mũi Cồn Cỏ, mũi Trâu Nằm, mũi Chùa. Thực vật có nhiều cây họ dầu, sồi dẻ, họ re,.... chiếm trên 60% diện tích đảo. Các cây họ dầu có kích thước khá lớn như ở trên đất liền. Rừng có nhiều lâm sản khác như song, mây, cây làm thuốc và thú rừng như khỉ, nai, heo rừng. Vùng biển quanh đảo giàu về hải sản như tôm, cá mực, hải sâm, đồi mồi, nghề cá rất phát đạt. Bắc đảo có dãy rừng nguyên sinh và hệ động thực vật phong phú cùng vô số bãi biển đẹp. Đông và Nam đảo Phú Quốc là vùng đất thấp đan xen rừng cấp hai, là nơi tập trung dân cư của đảo. Các bãi biển đẹp thu hút như bãi
92
Trường, bãi Sao, bãi Khem, Giếng Ngự. Vùng nằm trong 1 loại SKH IAc. Toàn vùng nằm trong khu vực mưa nhiều nhất của miền Nam Việt Nam: lượng mưa trung bình năm 3037mm/năm với 9 tháng có lượng mưa trên 100mm. Điều kiện tự nhiên và vùng đảo với các bãi biển có các dãy núi đâm ra biển, núi thấp tạo điều kiện cho phát triển DLTQ, tắm biển, DLND, du lịch khám phá các đảo. Nhiều tour du lịch khám phá như lặn biển san hô, khám phá rừng nguyên sinh, câu cá, câu mực đêm.
2.5.11. Vùng biển đảo bờ Đông TNB [II.8]
Vùng biển đảo bờ Đông TNB gồm quần đảo Côn Đảo gồm 16 hòn đảo to nhỏ khác nhau với diện tích chung là 76km² với khoảng 60 000 km² thềm lục địa. Đảo lớn nhất là Côn Lôn (Sơn) (Côn Đảo) với chủ yếu là đồi và núi: đỉnh cao nhất nằm ở phía nam là đỉnh Lớn nhô lên đến 690m, các đỉnh khác sàn sàn 400 -500m. Đồng bằng nằm ở phía đông nam đảo với một thị trấn nhỏ ở ngay sát bờ biển, giới hạn về phía đông bắc bởi mũi Đất Giốc, phía nam bởi Mũi Đỏ. Bờ biển ở hai mũi l m vào tạo thành một vụng lớn, tạo điều kiện cho các bãi phù sa biển có thể phát triển. Điều kiện khí hậu á xích đạo hải dương, với nền nhiệt rất nóng 26ºC và ẩm nhiều, lượng mưa rất lớn đạt ≥2000mm/năm, số tháng mùa khô dài trung bình từ 4 -5 tháng, số ngày mưa nhiều ≥ 160 ngày nên vùng này nằm trong SKH IAa. Rừng mọc um tùm gồm chủ yếu là Bời Lời và nhiều loại gỗ khác. Giới động vật rất phong phú: chồn, sóc, khỉ, di chuyển từng đàn trong rừng thưa, đồng cỏ có hưu nai. Nhiều loài cá tập trung quanh Côn Đảo. Hải ba và đồi mồi là những hải sản quý. Đặc điểm tự nhiên trên giúp phát triển mạnh ngành DLTQ, DLND, tắm biển và kết hợp du lịch khám phá các cảnh quan rừng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Nam Bộ có tiềm năng lớn để phát triển DL, có nhiều loại TNDL độc đáo và có tính đặc trưng; như tài nguyên sinh vật có tới 4 KDTSQTG, hàng loạt các VQG, tài nguyên địa hình có đồng bằng, đồng bằng cổ, núi sót, karst đa dạng, nhiều thắng cảnh đẹp, các bãi biển cát trắng đạt chất lượng cao, mật độ sông ngòi dày, các cù lao, giồng, bưng đặc tạo nhiều cảnh đẹp ven sông, hồ, thác nước có ở miền núi tăng tính hấp dẫn cho TNTN, bên cạnh đó còn có thể kết hợp về mặt không gian và thời gian giữa các loại tài nguyên để triển khai nhiều LHDL phục vụ khai thác quanh năm. Nam Bộ là vùng đất có TNDL Văn hóa đa dạng, phong phú nhất về tôn giáo và tín ngưỡng nước ta. Toàn Nam Bộ có tới 338 DTLSVH vật thể xếp hạng quốc
gia, trong đó có 13 DTLSVH được xếp loại quốc gia đặc biệt, 301 làng nghề truyền thống, rất nhiều lễ hội được tổ chức quanh năm, riêng TNB có tới 1.237 lễ hội, với nhiều loại hình như lễ hội lịch sử, lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội dân gian diễn ra quanh năm. Nền văn hóa đặc trưng đồng bằng sông nước và sự tiếp biến các yếu tố văn hoá của người Chăm, người Khmer, người Hoa vào văn hoá Việt trong vùng với 1 Di sản văn hóa phi vật thể thế giới là đờn ca tài tử Nam Bộ.
Nam Bộ có kiểu khí hậu nhiệt đới - cận xích đạo gió mùa nóng và ẩm, có bức xạ Mặt trời lớn, số giờ nắng nhiều (1.892-2.646 giờ/năm); tốc độ gió 2-3m/s thuộc loại tốt đến rất tốt cho sức khỏe con người; nhiệt độ trung bình năm cao từ 26,1 – 28,10C, biên độ nhiệt năm thấp < 60C; Nam Bộ có lượng mưa khá dồi dào dao động 1285-2446mm/năm nhưng chủ yếu là mưa rào mau tạnh; Nam Bộ có hạn bà chằn, 7-10 đợt không mưa liên tục 5 ngày, 4-6 đợt không mưa liên tục 7 ngày tạo thời tiết khô ráo, thuận lợi cho DL nhiều tháng trong năm. Nghiên cứu sự phân hoá của khí
hậu Nam Bộ, vận dụng các kết quả nghiên cứu về phân loại SKH đã thực hiện ở Việt Nam [43], NCS đã xây dựng hệ chỉ tiêu và bản đồ phân loại SKH du lịch Nam Bộ (tỷ lệ 1:250.000). Kết quả trên lãnh thổ Nam Bộ xác định được 12 loại SKH khác nhau với những đặc điểm SKH không giống nhau và mức độ phù hợp với các LHDL cũng khác nhau. Đánh giá tài nguyên SKH qua chỉ số TCI cho thấy: tuy CTI trung bình năm ở Nam Bộ chủ yếu nằm trong khoảng 40- 55 (ngưỡng chấp nhận được đến tương đối tốt), tuy nhiên thời kỳ khí hậu DL tốt đến rất tốt (CTI ≈ 60-80) lại là các tháng XII – III, chính là mùa khô ở Nam Bộ; Đặc biệt biến trình năm của CTI cũng cho thấy trên toàn vùng Vũng tàu chẳng những có CTI cao nhất Nam Bộ mà thời gian có chỉ số này tốt – rất tốt cho DL cũng dài hơn, từ tháng XI năm trước tới hết tháng IV năm sau, trong đó tháng I là tháng có chỉ số này cao nhất (>80) – đạt mức tuyệt với cho PTDL.
Phân tích đặc điểm tự nhiên Nam Bộ, vận dụng kết quả nghiên cứu về phân vùng ĐLTN của các tác giả trong và ngoài nước, kế thừa phân vùng địa lý tự nhiên Việt Nam của Phạm Hoàng Hải - Nguyễn Thượng Hùng - Nguyễn Ngọc Khánh (1997, [28]), hệ thống phân vùng Nam Bộ được phân chia theo 3 cấp: Đới miền
vùng. Kết quả phân vùng lãnh thổ Nam Bộ (đới Nam Bộ) cho thấy có 2 miền là ĐNB và TNB, 11 vùng, bản đồ phân vùng ĐLTN Nam Bộ, tỉ lệ 1:250.000 (bản đồ
9) cùng với chú giải đã cho thấy những khác biệt cơ bản giữa các vùng ĐLTN.
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN DU LỊCH, ĐIỀU KIỆN SINH KHÍ HẬU CHO CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH NAM BỘ
3.1. Cơ sở lựa chọn đánh giá một số loại h nh du lịch ở Nam bộ
Sự phong phú và đa dạng của TNDL và sự thuạ n lợi về ĐKSKH là co sở, tiền đề cho tổ chức, triển khai nhiều LHDL. Tuy nhiên, trong phạm vi luạ n án chỉ đánh giá cho mọ t số LHDL tiêu biểu, phụ thuọ c nhiều vào yếu tố tài nguyên và có tính bền vững. Co sở để lựa chọn mọ t số LHDL nhu sau: +Tiềm na ng về TNDL với những giá trị đạ c sắc, thể hiẹ n tính đạ c thù, đọ c đáo và ĐKSKH thuạ n lợi cho viẹ c tổ chức các LHDL. Xuất phát từ vai trò của TNDL, các khu vực đa dạng về TNDL, trong đó có những TNDL đạ c sắc và đọ c đáo là điều kiẹ n thuạ n lợi cho phát triển đa dạng các LHDL, từ đó tạo nên những sản phẩm du lịch đọ c đáo riêng cho từng khu vực. + Hiẹ n trạng khai thác TNDL, các LHDL đang đu ợc khai thác trên thực tế của khu vực nghiên cứu. +Xác định LHDL dựa vào định hu ớng PTDL của địa phu o ng, vùng lãnh thổ. Các chiến lu ợc và định hu ớng của địa phu o ng trong phát triển các LHDL và các sản phẩm du lịch là co sở quan trọng để lựa chọn các LHDL cho phù hợp. + Dựa vào nhu cầu và xu hu ớng PTDL trong tu o ng lai, đạ c biẹ t là các LHDL mang tính bền vững, thân thiẹ n với môi tru ờng mà thế giới đang hu ớng tới. Mỗi LHDL đu ợc xuất hiẹ n và khai thác để tạo nên xác sản phẩm du lịch đều phải dựa trên nhu cầu của DK. Mạ t khác, trong xu thế hiẹ n nay, viẹ c phát triển các ngành kinh tế cần dựa trên quan điểm phát triển bền vững. Do vạ y, những LHDL thân thiẹ n với môi tru ờng, có tính giáo dục cao sẽ là những LHDL phát triển cần hu ớng tới trong tu o ng lai. Từ các co sở trên, kết hợp với khuôn khổ của luạ n án, những LHDL đu ợc lựa chọn để đánh giá gồm: 1) Du lịch tham quan tự nhiên (DLTQ); 2) Du lịch nghỉ dưỡng (DLND): 3) Du lịch sinh thái (DLST); 4) Du lịch văn hóa (DLVH). Đây là những LHDL có tính bền vững, ít tổn hại đến môi tru ờng, mang thế mạnh lâu dài và đặc sắc riêng cho vùng, đạ c biẹ t mọ t số LHDL còn mang tính giáo dục cao, đảm bảo những yêu cầu của phát triển DL.
3.2. Đánh giá TNDL cho một số loại h nh du lịch Nam Bộ