Vấn đề sức khỏe tâm thần(Mental Health Problem) cũng gây trở ngại đến nhận thức, cảm xúc và chức năng xã hội nhưng nhẹ hơn rối loạn tâm thần (RLTT). Vấn đề SKTT là những phàn nàn khó chịu thường xuyên hơn mức bình thường và nó bao gồm các rối loạn nhất thời như phản ứng của cơ thể đối với các sang chấn tâm lý. Vấn đề SKTT thường nhẹ hơn và ít kéo dài như các RLTT nhưng nó có thể dễ dàng phát triển thành các RLTT. Việc phân biệt nhiều khi không rõ và chủ yếu dựa vào mức độ và thời gian kéo dài của các triệu chứng [98].
Tại Việt Nam, Trần Tuấn đề xuất sử dụng thuật ngữ “Sức khỏe tâm trí” thay cho thuật ngữ “Sức khỏe tâm thần” và dùng thuật ngữ “Rối nhiễu tâm trí” để chỉ các trường hợp có lệch lạc về SKTT để tránh kỳ thị khi thực hiện các nghiên cứu tại cộng đồng [33]. Một số tác giả khác cũng đề cập đến thuật ngữ này trong nghiên cứu cộng đồng về SKTT [10], [15].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không có điều kiện phân biệt rạch ròi từng trường hợp rối loạn, do vậy sử dụng các thuật ngữ “Vấn đề sức khỏe tâm thần”, “Rối loạn tâm thần và hành vi”, “Bệnh tâm thần” cùng để chỉ tất cả các trường hợp có rối loạn SKTT cần phải được can thiệp.
1.1.1.3. Sức khỏe tâm thần trẻ em và thanh thiếu niên
Thời thơ ấu và tuổi vị thành niên kéo dài gần 20 năm. Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhất về mọi mặt và được đánh dấu bởi những thay đổi đáng kể về mặt cơ thể, nhận thức, tình cảm, kỹ năng xã hội và các năng lực khác. SKTT ở trẻ em và vị thành niên được xác định bởi các kết quả quá trình phát triển nhận thức, xã hội, nền móng xúc cảm, khả năng đáp ứng các mối quan hệ xã hội, và các kỹ năng đối phó, thích nghi có hiệu quả.
Như vậy, trẻ em và thanh thiếu niên có SKTT tốt là những người có khả năng đạt được và duy trì các chức năng tâm lý, xã hội thích hợp và luôn thoải mái. Trẻ tự nhận thức được giá trị của bản thân, gia đình và các mối quan hệ bạn bè, có khả năng học tập và sáng tạo, có khả năng giải quyết những thách thức trong quá trình phát triển, sử dụng hiệu quả các tiềm năng để phát triển toàn diện, có chất lượng cuộc sống tốt, hoàn thành tốt các công việc ở nhà, ở trường và trong cộng đồng của chúng, đồng thời phải không có các triệu chứng rối loạn tâm lý [119].
Giống như người lớn, trẻ em cũng có thể có các rối loạn SKTT mà ảnh hưởng đến cách chúng nghĩ, cảm nhận và ứng xử. Khoảng 50% các rối loạn SKTT thường bắt đầu trước tuổi 14 và nếu không được điều trị bệnh có thể kéo dài, để lại hậu quả nặng nề, dẫn đến thất học, các xung đột gia đình, nghiện ma tuý, bạo lực và thậm chí là tự sát. Các rối loạn SKTT cũng tiêu tốn rất nhiều tiền của của gia đình, cộng đồng và hệ thống chăm sóc sức khoẻ [117].
1.1.2. Đặc điểm các rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em và thanh thiếu niên
Hội đồng Y khoa Hoa Kỳ (The U.S. Surgeon General’s) năm 2000, trong “báo cáo về sức khoẻ tâm thần trẻ em”, đã ước tính rằng 1/5 trẻ em và thanh thiếu niên sẽ mắc một vấn đề sức khoẻ tâm thần rõ rệt trong quá trình đi học. Các vấn đề ở trẻ khác nhau về mức độ nặng nhẹ nhưng khoảng 70% trong số các trẻ đó cần được điều trị mà không nhận được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần (CSSKTT) phù hợp [105]. Những vấn đề SKTT có thể xuất hiện sớm ngay từ khi trẻ rất nhỏ, và tương tự như tất cả các mặt phát triển của trẻ, chúng ta càng quan tâm sớm đến SKTT thì càng tốt.
Các rối loạn SKTT ở trẻ em và thanh thiếu niên gồm có:
• Các rối loạn phát triển (chậm phát triển tâm thần, tự kỷ, rối loạn học...)
• Rối loạn cảm xúc (trầm cảm, lo âu, rối loạn cảm xúc lưỡng cực...)
- Các rối loạn hành vi: Rối loạn tăng động – giảm chú ý; Rối loạn bướng bỉnh, chống đối; Rối loạn ứng xử
• Nghiện ma túy
• Rối loạn loạn thần
Tuổi | ||||||||||||||||||
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | |
RL tách mẹ | ||||||||||||||||||
RL phát triển | ||||||||||||||||||
RL ứng xử | ||||||||||||||||||
RL cảm xúc | ||||||||||||||||||
Nghiện chất | ||||||||||||||||||
Loạn thần |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6-15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên - 1
- Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6-15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên - 2
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Sức Khỏe Tâm Thần Trẻ Em Và Thanh Thiếu Niên
- Các Mô Hình Can Thiệp Cộng Đồng Trong Chăm Sóc Sức Khỏe Tâm Thần Trẻ Em Trên Hiện Nay
- Một Số Mô Hình Thí Điểm Cssktt Cho Trẻ Em Và Thanh Thiếu Niên Tại Việt Nam
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Hình 1.1. Mức độ phổ biến của một số rối loạn theo lứa tuổi (WHO – 2005) [119]
1.1.3. Thực trạng các rối loạn tâm thần - hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên và nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ em
1.1.3.1. Thực trạng các rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên trên thế giới
Các điều tra dịch tễ học ở nhiều quốc gia trên thế giới đều cho thấy RLTT & HV ở trẻ em và thanh thiếu niên rất phổ biến và chiếm tỷ lệ khoảng từ 13 – 29% [40], [47], [50], [51]. Theo WHO – 2005, nghiên cứu tại cộng đồng trên nhiều quốc gia cho thấy khoảng 20% trẻ em và thanh thiếu niên đang gặp phải các vấn đề SKTT đáp ứng các tiêu chí chẩn đoán cho một rối loạn đặc thù. Các rối loạn thường đặc trưng theo từng giai đoạn phát triển của trẻ, thường gặp nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên là: các vấn đề về cảm xúc (trầm cảm, lo âu), các rối loạn liên quan đến stress và các rối loạn dạng cơ thể, chứng tự kỷ, rối loạn trong học tập, rối loạn ứng xử, rối loạn tâm thần thể chống đối, các RLTT & HV do lạm dụng các chất gây nghiện. Chỉ có 10 - 22% trẻ em trong số này được phát hiện bởi các nhân viên chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Đa số còn lại không được phát hiện sớm và không nhận được sự chăm sóc thích hợp về mặt y tế. Bên cạnh đó, còn rất nhiều trẻ có vấn đề về SKTT nhưng chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán (các rối loạn dưới ngưỡng) và các rối loạn dưới ngưỡng này có nguy cơ cao phát triển thành các rối loạn rõ rệt khi gặp các điều kiện bất lợi của môi trường sống [119].
Bảng 1.1. Tỷ lệ RLTT & HV của trẻ em và thanh thiếu niên ở một số nước
Độ tuổi | Tỷ lệ (%) | Tác giả | |
Brazil | 7 – 14 | 12,7 | Fleitlich-Bilyk & Goodman, 2004 |
Canada (Ontario) | 4 – 16 | 18,1 | Offord và cs., 1987 |
Ethiopia | 1 – 15 | 17,7 | Tadesse và cs., 1999 |
Đức | 12 – 15 | 20,7 | Weyerer và cs., 1988 |
Ấn độ | 1 – 16 | 12,8 | Indian Council of Medical Research |
Nhật bản | 12 – 15 | 15,0 | Morita và cs., 1993 |
Tây Ban Nha | 8,11,15 | 21,7 | Gomez-Beneyto và cs.,1994 |
Thuỵ Sỹ | 1 – 15 | 22,5 | Steinhausen và cs., 1998 |
Mỹ | 9 – 17 | 21,0 | US Department of Health & Human Services, 1999 |
(Nguồn: theo WHO – 2005) [119]
Các nghiên cứu gần đây trên thế giới đã ngày càng chỉ ra mức độ đáng quan tâm về SKTT trẻ em. Menelik Desta và cs. (2008), thực hiện một nghiên cứu 2 giai đoạn trên 5000 trẻ em 6 – 15 tuổi Ethiopia được lựa chọn ngẫu nhiên tại cộng đồng, sử dụng thang điểm dành cho cha mẹ Reporting Questionnaire for Children (RQC) để sàng lọc sau đó phỏng vấn trẻ dựa theo bảng phỏng vấn chẩn đoán dành cho trẻ em của Hội Tâm thần học Mỹ (Diagnostic Interview for Children and Adolescents -DICA-R). Kết quả đã cho thấy tỷ lệ RLTT & HV là 17% [88]. Theo báo cáo của Bộ Y tế Hoa Kỳ, tỷ lệ RLTT & HV trẻ em và thanh thiếu niên ở quốc gia này là 10 – 25% [105]. Costello E. Jane và cs. 2003 (Hoa Kỳ) đã tiến hành một nghiên cứu dọc tại cộng đồng để đánh giá tỷ lệ và sự phát triển của các RLTT & HV ở trẻ em từ 9 – 16 tuổi. Nghiên cứu thực hiện trên 1420 trẻ từ 9 – 13 tuổi và việc đánh giá các RLTT theo DSM-IV được thực hiện định kỳ cho đến khi trẻ 16 tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ trung bình 3 tháng của bất kỳ rối loạn nào là 13,3% (95% CI, 11.7% - 15.0%). Trong suốt thời gian nghiên cứu, 31% trẻ gái và 42% trẻ trai có ít nhất một RLTT. Một số rối loạn như ám sợ xã hội, cơn hoảng sợ, trầm cảm, lạm dụng chất gây nghiện có xu hướng tăng lên trong khi một số rối loạn khác như: lo sợ bị chia cắt, tăng động giảm chú ý lại giảm đi [47]. Tại Anh, Howard Meltzer (2007), nghiên cứu trên 18000 trẻ em từ 5 – 15 tuổi nhận thấy có 9,5% trẻ có ít nhất một RLTT đặc thù theo ICD10 [66]. Einarheiervang (2007) nghiên cứu 9430 trẻ 8 – 10 tuổi của thành phố Bergen – Na Uy thấy tỷ lệ trẻ có RLTT & HV đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-IV là 7% [53]. Charlotte Waddell (2002) cho biết tỷ lệ các RLTT & HV ở trẻ em và thanh thiếu niên British Columbia là 15% [46]. Srinath
S. và cs. (2005) nghiên cứu trên 2064 trẻ em 0 - 16 tuổi qua 2 bước sàng lọc và khám lâm sàng chi tiết nhận thấy 12% trẻ 4 -16 tuổi có RLTT & HV. Các rối loạn chủ yếu bao gồm: đái dầm, ám sợ, nói lắp và rối loạn bướng bỉnh chống đối. 5,3% trong số đó là các rối loạn nặng, có ảnh hưởng đến các chức năng của trẻ [103]. Donald W. Spady và cs. (2001) cũng nhận thấy tình trạng bệnh lý phối hợp rất phổ biến khi tìm hiểu về RLTT trẻ em và thanh thiếu niên ở Alberta, Canada [51]. Demir T và cs. (2011) báo cáo một nghiên cứu về trầm cảm trên 1482 học sinh từ lớp 4 đến lớp 8 của 3 trường học ở Thổ Nhĩ Kỳ cho biết tỷ lệ
trầm cảm cảm là 4,2% [50]. Marc Schmid và cs, 2008 nghiên cứu ở trẻ em trong cô nhi viện ở Đức nhận thấy tỷ lệ các RLTT đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10 là 59,9%, trong đó chủ yếu là các rối loạn hành vi ứng xử. Các rối loạn phối hợp cũng chiếm tỷ lệ cao trong kết quả nghiên cứu [86].
Bảng 1.2. Đặc điểm các rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em và thanh thiếu niên lứa tuổi 9 – 17 tại Hoa Kỳ
Tỷ lệ (%) | |
Các rối loạn lo âu | 13.0 |
Các rối loạn khí sắc | 6.2 |
Các rối loạn hành vi | 10.3 |
Các rối loạn do sử dụng chất gây nghiện | 2.0 |
Số trẻ có rối loạn | 20.9 |
Nguồn: Mental Health: A Report of the Surgeon General- USA [105]
Một nghiên cứu nổi tiếng có tính quốc gia về các bệnh tâm thần được tiến hành năm1998 tại Australia khảo sát trên 4500 trẻ em nhóm tuổi từ 4 – 17 nhằm đánh giá tỷ lệ mắc các RLTT và các vấn đề có liên quan. Nghiên cứu bao gồm thu nhận các thông tin qua các cán bộ chăm sóc sức khỏe ban đầu và phỏng vấn dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán DSM – IV về các rối loạn trầm cảm và các rối loạn hành vi. Khảo sát này cho thấy 14% trẻ có các RLTT rõ rệt. Tỷ lệ mắc các RLTT cao hơn ở nhóm trẻ sống trong các gia đình có thu nhập thấp, chất lượng cuộc sống thấp và có tỷ lệ cao những người có hành vi tự sát, hút thuốc lá và nghiện rượu [100].
Kleintjes S. và cs. 2006 tiến hành nghiên cứu tại Nam Phi nhận thấy tỷ lệ các RLTT & HV ở trẻ em và thanh thiếu niên là 17% [81]. Asma A Al-Jawadi và cs. (2007) nhận thấy 37,4% trẻ em tại Mosul, Iraq có các vấn đề SKTT. Các rối loạn thường gặp nhất là rối loạn stress sau sang chấn (10,5%), đái dầm (6%), lo sợ bị chia cắt (4,3%), ám ảnh (3,3%) nói lắp và từ chối đi học (3,2%),
rối loạn học tập và rối loạn hành vi (2,5%), chuyển động rập khuôn (2,3%) và rối loạn ăn trong giai đoạn trẻ nhỏ (2,0%) [37].
Các báo cáo gần đây ở Châu Á đã chỉ ra rằng bệnh lý tâm thần trẻ em cũng khá phổ biến. Ở Ấn độ, các nhà nghiên cứu gần đây nhận thấy rằng có khoảng 12% trẻ 4 – 16 tuổi có bệnh lý tâm thần. Một nghiên cứu tương tự cũng ở Ấn Độ, khi suy giảm chức năng được đưa vào tiêu chuẩn chẩn đoán, tỷ lệ trẻ 4 – 16 tuổi có bệnh lý tâm thần ảnh hưởng đến các chức năng là 5,3% [103]. Mullick và Goodman 2005 thực hiện một nghiên cứu 2 giai đoạn ở trẻ em Bangladesh cho thấy tỷ lệ bệnh tâm thần trẻ em theo các tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10 là 15% [93]. Một nghiên cứu dịch tễ học hồi cứu từ 12 đến 18 tháng trước ở 51 vùng của các nước Châu Á nhận thấy tỷ lệ trẻ em và thanh thiếu niên có vấn đề SKTT là từ 10 – 20% [102].
Kết quả nghiên cứu dịch tễ học các RLTT & HV trẻ em ở các quốc gia có sự chênh lệch đáng kể được các tác giả phân tích là do các yếu tố:
- Tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau trong từng nghiên cứu (ICD; DSM)
- Biện pháp nghiên cứu (công cụ nghiên cứu ) khác nhau
- Đối tượng nghiên cứu khác nhau
- Thời điểm nghiên cứu
- Khác nhau về văn hóa…
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đa số (khoảng 80%) các trẻ mắc rối loạn SKTT không nhận được sự chăm sóc và điều trị từ các dịch vụ chăm sóc SKTT do các nguyên nhân:
Không được phát hiện ngay cả khi các rối loạn đã trở nên khá nghiêm trọng.
Rào cản nhận thức: sợ bị xa lánh, không nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, không cho rằng đó là bệnh lý,...
Không có khả năng tiếp cận dịch vụ: thiếu tiền, không có thời gian…
Dịch vụ chưa phát triển [46], [51], [60]
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, các rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em qua các số liệu nghiên cứu của các khu vực khác nhau trên thế giới đều chiếm một tỷ lệ khá cao (10 – 20%). Các rối loạn hàng đầu ở trẻ bao gồm: các rối loạn lo âu,
rối loạn khí sắc, và các rối loạn hành vi. Đa số các trẻ em mắc rối loạn chưa nhận được các dịch vụ chăm sóc SKTT phù hợp và còn có rất nhiều rào cản trong công tác chăm sóc SKTT trẻ em.
1.1.3.2. Tình hình các rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em và thanh thiếu niên ở Việt Nam
Điểm qua các nghiên cứu về dịch tễ học rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em và thanh thiếu niên ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khoảng 20 năm trở lại đây, đã bắt đầu có tác giả đề cập đến vấn đề SKTT ở trẻ em và thanh thiếu niên. Tuy vậy, việc nghiên cứu về SKTT trẻ em mới chỉ được quan tâm nhiều trong khoảng 10 năm trở lại đây. Các nghiên cứu học đường cho thấy khoảng 10 – 25% học sinh có vấn đề về SKTT. Các rối loạn thường gặp như: trầm cảm, lo âu, rối loạn tăng động, rối loạn liên quan đến học tập, rối loạn ứng xử, gây gổ đánh nhau, nghiện chất, nghiện điện tử và game online [7], [20]. Theo một khảo sát cắt ngang tại Việt Nam tỷ lệ trẻ em có các RLTT chung là 15,9%, khảo sát dọc thời gian trong 1 năm học có tới 1,6% các em có RLTT trong tổng số học sinh ở các cấp học [110]. Trần Văn Cường và cộng sự (2002) điều tra dịch tễ học lâm sàng mười nhóm bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế – xã hội khác nhau của nước ta, cho thấy tỷ lệ rối loạn hành vi trung bình tại các điểm nghiên cứu là 6%; thấp nhất là tại phường Gia Sàng Thành phố Thái Nguyên tỷ lệ rối loạn hành vi ở lứa tuổi 10-17 tuổi là 1% và cao nhất là Định Trung (Vĩnh Phúc) rối loạn hành vi ở lứa tuổi 10-17 tuổi là 21% [2]. Năm 2004, trong khuôn khổ dự án nghiên cứu quốc tế về nghèo khổ trẻ em (Young Lives 2001-2005), Trần Tuấn và cs. (2004) báo cáo tỷ lệ bị rối nhiễu tâm trí trong học sinh độ tuổi lớp 2, 3 ở 31 xã thuộc 5 tỉnh của Lào Cai, Hưng Yên, Đà Nẵng, Phú Yên, Bến Tre là 20% [109]. Báo cáo của Nguyễn Thọ (2005) cho thấy ở học sinh tiểu học, các vấn đề tâm lý, tâm thần gặp ở 24,27% trong đó chủ yếu là sự rối loạn các kỹ năng nhà trường và chức năng vận động [21]. Chu Văn Toàn (2008), nghiên cứu tại Thanh Hóa cho biết tỷ lệ mắc chung các rối loạn hành vi ở trẻ 11 - 18 tuổi ở các xã Hải Lộc là: 7,1%; Cẩm Sơn: 6,64%; Đông Cương là: 8,71%; Hà Vân là: 6,22% [26]. Kết quả khảo sát SKTT của trẻ em tại thành phố Hà Nội, bằng công cụ SDQs trên 1202 trẻ em ở độ tuổi từ 10-
16 tuổi, trẻ em có các vấn đề về SKTT và hành vi chiếm tỷ lệ 19,46%. Trong đó, rối loạn cảm xúc chiếm 11,48%; rối loạn ứng xử chiếm 9,23%; rối loạn tăng động giảm chú ý là 14,1%; các vấn đề nhóm bạn là 9,32%; các vấn đề kỹ năng tiền xã hội chiếm 7,57% [9]. Trong những năm gần đây, rối loạn hành vi thanh thiếu niên có chiều hướng ngày càng gia tăng. Theo nghiên cứu của ngành tâm thần học Việt Nam 1990, rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên 10 – 17 tuổi là 3,7%, thành thị cao hơn nông thôn, trẻ trai cao hơn trẻ gái. Theo nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú và cs. (1997), số trẻ em có rối loạn hành vi ở một phường dân cư Hà Nội là 6 – 10% [31]. Nguyễn Thanh Hương và cs. (2006) nghiên cứu trên 2591 học sinh 12 – 18 tuổi ở Hà Nội và Hải Dương nhận thấy các rối loạn hành vi, cảm xúc ở trẻ vị thành niên cao và có liên quan đến việc trẻ bị đối xử không đúng ở nhà cũng như ở trường [69]. Tuy khác nhau về phương pháp tiến hành, về đối tượng, địa điểm và thời điểm nghiên cứu nhưng các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước đã cho thấy các rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể và cần được tiếp tục đánh giá một cách toàn diện hơn.
Tình hình nghiên cứu tại Thái Nguyên và khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam
Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở khu vực miền núi phía Bắc với dân số khoảng 1.127.000, là nơi sinh sống của 8 dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, H’mông, Sán Chay, Hoa và Dao. Khoảng 1/3 dân số Thái Nguyên ở độ dưới 18. Với đặc điểm là trung tâm của khu vực miền núi phía Bắc, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp và trường học nên Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi, nhưng cũng là tỉnh có nhiều vấn đề xã hội phức tạp trong đó có vấn đề RLTT & HV ở trẻ em và thanh thiếu niên. Bùi Đức Trình và cs. thực hiện một nghiên cứu điều tra các RLTT & HV tại phường Đồng Quang – thành phố Thái Nguyên (1989) trên 1610 trẻ độ tuổi từ 10 – 17 ghi nhận có 146 trẻ có các RLTT & HV rõ chiếm 9%. Các rối loạn tập trung chủ yếu từ 12 – 14 tuổi chiếm tỷ lệ 44%; nhóm tuổi từ 15 -17 chiếm 42% [28]. Trần Văn Cường và cs. (2002) điều tra dịch tễ học lâm sàng mười nhóm bệnh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế – xã hội khác nhau của nước ta, cho thấy tỷ lệ rối loạn hành vi tại phường Gia Sàng Thành phố Thái Nguyên ở lứa tuổi