Vì là đề tài nghiên cứu hệ thống KSNB ngân hàng – một tổ chức tín dụng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vì vậy để đi sâu vào vấn đề nghiên cứu tôi đã tìm hiểu nghiên cứu về khuôn khổ hệ thống kiểm soát nội bộ theo báo cáo của Uỷ ban giám sát Basel phát hành tháng 9 năm 1988.
Bên cạnh những rủi ro tín dụng thường gặp phải, đề tài còn tìm hiểu những rủi ro tác nghiệp xảy ra trong quy trình cho vay khách hàng doanh nghiệp. Thêm vào đó, đề tài tìm hiểu sâu về các hoạt động kiểm soát nội bộ theo mô hình quản lý rủi ro mới nhất của chi nhánh. Hiện nay ngân hàng Vietinbank và Chi nhánh là các ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam đang chuyển đổi và ứng dụng mô hình kiểm soát rủi ro theo mô hình mới nhất: Basel giai đoạn II. Mặt khác đề tài còn đi sâu tìm hiểu, đánh giá việc thực hiện công việc của các cán bộ nhân viên trong Ngân hàng có thực sự đúng với các quy trình, quy định của đơn vị, đúng với trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ được giao.
Một điểm mới của đề tài đó là chưa có đề tài nào tương tự của sinh viên trường Đại học Kinh Tế Huế được thực hiện tại ngân hàng TMCP Công Thương tỉnh Lâm Đồng.
8. Cấu trúc đề tài:
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Nội dung nghiên cứu của đề tài, bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại nói chung và hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay trong ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng Công Thương – Chi nhánh Lâm Đồng.
Chương 3: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng Công Thương – Chi nhánh Lâm Đồng.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương – chi nhánh Lâm Đồng - 1
- Kiểm Soát Nội Bộ Hoạt Động Cho Vay Trong Ngân Hàng Thương Mại.
- Kiểm Soát Nội Bộ Hoạt Động Cho Vay Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp .
- Tình Hình Hoạt Động Của Ngân Hàng Qua Các Năm 2011, 2012, 2013.
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
Phần III: Kết luận và kiến nghị.
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NÓI CHUNG VÀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Tổng quan về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2009), Ngân Hàng Thương Mại: Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bão lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2009), Ngân Hàng Thương Mại: Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng chỉ dựa trên cơ sở lòng tin.Ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ.
Tín dụng là sự chuyển nhượng một số tài sản có thời hạn. Ngân hàng là trung gian tài chính “đi vay để cho vay”, nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có thời hạn, đảm bảo cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động.
Tín dụng phải dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (giá trị gốc).
Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng.
Tín dụng phải dựa trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện: quá trình xin vay và cho vay phải dựa trên các căn cứ pháp lý chặt chẽ, trong đó bên đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng vô điều kiện.
1.1.3. Các loại hình tín dụng ngân hàng.
1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2009), Ngân Hàng Thương Mại, căn cứ vào thời hạn tín dụng có thể phân loại như sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm và sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến trang thiết bị, mở rộng sản xuất, xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng cho nhu cầu đầu tư dài hạn như xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư mở rộng sản xuất quy mô lớn.
1.1.3.2. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2009), Ngân Hàng Thương Mại căn cứ vào bảo đảm tín dụng có thể phân loại như sau:
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hoặc có sự bão lãnh của bên thứ ba.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố thế chấp, không có sự bão lãnh của bên thứ ba.
1.1.3.3. Căn cứ vào chủ thể vay vốn.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2009), Ngân Hàng Thương Mại căn cứ vào chủ thể vay vốn có thể phân loại như sau:
- Tín dụng doanh nghiệp: tín dụng mà các doanh nghiệp thường vay với những khoản vay có giá trị lớn.
- Tín dụng cá nhân, hộ gia đình: tín dụng dành cho những cá nhân, hộ gia đình vay những khoản vay có giá trị nhỏ.
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: đây là khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
1.1.3.4. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2009), Ngân Hàng Thương Mại có thể phân loại như sau:
- Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải trả vốn gốc và lãi vay định kỳ thành những khoản thanh toán bằng nhau cho ngân hàng.
- Tín dụng hoàn trả một lần: Là loại tín dụng mà khách hàng chỉ trả cả gốc và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu chi, thẻ tín dụng.
Ngoài ra căn cứ vào mục đích tín dụng, người ta còn phân ra các hình thức tín dụng sau: tín dụng bất động sản; tín dụng công thương nghiệp; tín dụng nông nghiệp; tín dụng tiêu dùng.
1.1.4. Rủi ro tín dụng của hoạt động tín dụng.
1.1.4.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Theo Khoản 1, Điều 2, Chương I, Quyết định của Thống đốc NHNN – Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòngđể xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng:“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng hoặc trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Người cho vay luôn phải chịu rủi ro khi chấp nhận một hợp đồng cho vay tín dụng và bất cứ một hợp đồng tín dụng nào cũng ẩn chứa rủi ro.
1.1.4.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
RRTD là do khách hàng vay vốn và mất khả năng trả nợ. RRTD xảy ra có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân cơ bản sau:
a. Nguyên nhân khách quan:
- Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định:
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của nền thị trường thế giới.
- Rủi ro tất yếu của thị trường kinh tế hóa tài chính, hội nhập quốc tế.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu
- Quy hoạch, phân bổ đầu tư thiếu hợp lý dẫn đến khủng hoảng thừa về vốn đầu tư ở một số nghành.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:
- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật ở các địa phương.
- Hiệu quả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra của ngân hàng nhà nước chưa cao.
- Hệ thống thông tin quản lý còn nhiều bất cập.
b. Nguyên nhân chủ quan:
- Rủi ro từ phía khách hàng vay:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém.
- Tình hình tài chính của khách hàng yếu kém, thiếu minh bạch.
- Rủi ro từ phía ngân hàng cho vay:
- Hệ thống kiểm tra nội bộ của ngân hàng, của các chi nhánh chưa chặt chẽ.
- Một số cán bộ thiếu chuyên môn nghiệp vụ, thiếu đạo đức nghề nghiệp hay bố trí cán bộ chưa hợp lý.
- Công tác giám sát và quản lý sau khi cho vay không được thực hiện hay chỉ thực hiện để đối phó, mang tính hình thức.
- Sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại chưa thực sự chặt chẽ, vai trò của ICC22 chưa thực sự hiệu quả.
c. Nguyên nhân từ phía người cho vay
- Ngân hàng không chấp hành các nguyên tắc cho vay cũng như các điều kiện vay vốn.
- Chính sách và quá trình cho vay chưa chặt chẽ, chưa có quy trình kiểm soát rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ.
- Thiếu thông tin khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng kịp thời, chính xác, đáng tin cậy để xem xét phân tích trước khi cấp tín dụng. Hồ sơ khách hàng trong một số trường hợp còn sơ sài, hồ sơ khách hàng cung cấp không trung thực.
- Một số cán bộ, nhân viên thiếu phẩm chất đạo đức, kiến thức chuyên môn chưa vững vàng. Vấn đề đãi ngộ cán bộ nhân viên chưa thỏa đáng.
- Khả năng và quyết tâm của lãnh đạo trong việc quản lý giao nhiệm vụ thẩm định – quyết định cho vay – giám sát các khoản vay chưa thực hiện tốt. Lãnh đạo còn buông lỏng trong quản lý, công tác chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt, còn thiếu tiêu chuẩn ISO trong quản lý từ xa.
d. Nguyên nhân từ phía người đi vay
Những tác động ngoài ý chí của khách hàng như do thiên tai, hỏa hoạn, do sự tác động của chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch ngành vùng, do hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hóa đột ngột biến đổi, do sự tác động của các đối thủ cạnh tranh tầm cỡ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ của khách hàng, đem lại rủi ro không mong muốn.
Nguyên nhân nội tại từ khách có thể xuất phát từ vấn đề vốn tự có của doanh nghiệp, của tổ chức không đáp ứng đủ nhu cầu. Kinh nghiệm quản lý và năng lực điều hành của ban lãnh đạo còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường, thông tin về các đối tác, đối thủ cạnh tranh làm ảnh hưởng đến kế hoạch SXKD; công nghệ sản xuất ra sản phẩm lạc hậu, hay thiếu tính cạnh tranh cao; khách hàng thiếu thiện chí trả nợ ngay từ khi vay vốn.
Một số nguyên nhân khác: Sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng; sự biến hóa khôn lường của thị trường tài chính (lãi suất, tỷ giá, cung cầu tiền tệ…).
1.1.4.3. Các biểu hiện của rủi ro tín dụng.
Sự chậm trễ bất thường và không có lý do trong việc cung cấp báo cáo tài chính hay trả nợ như lịch đã hẹn trước, hoặc chậm trễ trong việc liên hệ với cán bộ tín dụng.
Đối với tín dụng doanh nghiệp, bất cứ sự thay đổi nào trong khấu hao, kế hoạch trả lương và phụ cấp,giá trị hàng tồn kho, tài khoản thuế và thu nhập đều là biểu hiện
của rủi ro tín dụng.
Đối với tín dụng doanh nghiệp, rủi ro còn biểu hiện ở sự biến đổi bất thường trong việc cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh toán cổ tức, hoặc có sự thay đổi trong xếp hạng tín nhiệm.
Giá cổ phiếu của công ty thay đổi bất thường.
Thu nhập ròng giảm trong một hay nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu như tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA), tỷ sinh lời trên vốn cổ phần (ROE), lợi tức trước thuế và lãi suất (EBIT).
Những thay đổi bất thường trong cơ cấu nguồn vốn (chỉ tiêu vốn cổ phần trên nợ vay), thanh khoản (chỉ tiêu thanh toán hiện thời, hệ số thanh toán nhanh, hệ số nợ…) hay mức độ hoạt động (chỉ tiêu doanh thu trên hàng tồn kho).
Độ lệch của doanh thu hay lưu chuyển tiền tệ so với kế hoạch sau khi tín dụng đã được cấp.
Những thay đổi bất ngờ không theo dự kiến cũng như không có lý do đối với số tiền dư gửi của khách hàng tại ngân hàng.
1.1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tăng cường tính linh hoạt: tín dụng tập trung vốn do đó làm tăng khả năng huy động vốn khi cần thiết đồng thời tín dụng phá bỏ các giới hạn về khả năng vốn cá nhân.
Tín dụng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội: tín dụng hầu như không dùng tới tiền mặt nên hạn chế được việc phát sinh các chi phí khi sử dụng tiền mặt. Mặt khác việc dịch chuyển các khoản tiền bằng hình thức chuyển khoản luôn nhanh chóng, đa dạng và an toàn so với vận chuyển bằng tiền mặt.
Tín dụng hạn chế hiện tượng “nền kinh tế tiền mặt”.
Tín dụng giúp tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động tài chính.
Tín dụng là công cụ thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng và góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế;
Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn;
Tín dụng góp phần thực hiện chính sách xã hội. (Nguồn: tổng hợp từ internet và một số tài liệu khác)
1.2. Tổng quan về kiểm soát nội bộ trong ngân hàng:
1.2.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2.1.1. Kiểm soát nội bộ.
Theo báo cáo của Coso, kiểm soát nội bộ là một quá trình bị chi phối bởi người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị, nó được thiết lập để cung cấp một sự bảo đảm hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- Sự hữu hiệu và hiệu quả của hoạt động.
- Sự tin cậy của báo cáo tài chính.
- Sự tuân thủ pháp luật và các quy định.
1.2.1.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ.
Cuối những năm 80, khi một loạt các công ty của Hoa Kì bị đổ vỡ, các chuyên gia đã xác định được nguyên nhân chính của sự đỗ vỡ là do hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty này yếu kém. Kể từ đó có nhiều định nghĩa về thuật ngữ hệ thống kiểm soát nội bộ ra đời:
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (The International Federation of Accountant - IFAC): “Hệ thống kiểm soát nội bộ là kế hoạch của đơn vị và toàn bộ các phương pháp, các bước công việc mà các nhà quản lý doanh nghiệp tuân theo. Hệ thống Kiểm soát nội bộ trợ giúp cho các nhà quản lý đạt được mục tiêu một cách chắc chắn theo trình tự và kinh doanh có hiệu quả kể cả việc tôn trọng các quy chế quản lý; giữ an toàn tài sản, ngăn chặn, phát hiện sai phạm và gian lận; ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác, lập báo cáo tài chính kịp thời, đáng tin cậy”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (số 400): “Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.”
Viện kiểm toán Anh (EAA) quốc tế lại cho rằng: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp bao gồm các chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông lệ, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lí kịp thời các rủi ro có thể xảy ra.”
Hội kế toán anh quốc định nghĩa rằng: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống kiểm soát toàn diện có kinh nghiệm tài chính và các lĩnh vực khác nhau được thành lập bởi ban quản lí nhằm:
- Tiến hành kinh doanh đơn vị có trật tự và hiệu quả.
- Đảm bảo tuân thủ tuyệt đối đường lối kinh doanh của ban quản trị.
- Giữ an toàn tài sản.
- Đảm bảo tính toàn diện và chính xác của số liệu hạch toán, những thành phần riêng lẻ của hệ thống kiểm soát nội bộ được coi là hoạt động kiểm tra hoặc hoạt động kiểm tra nội bộ.
Như vậy đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về hệ thống kiểm soát nội bộ nhưng tất cả các khái niệm này nhưng nhìn chung hệ thống kiểm soát nội bộ được hiểu là những chính sách thủ tục, quy trình, quy định nội bộ do đơn vị lập ra và vận hành chúng nhằm mục đích đạt được hiệu quả tối đa trong công tác quản lí và sản xuất kinh doanh, hạn chế các rủi ro, gian lận trong mọi hoạt động của đơn vị. Thiết lập và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ là một việc làm cấp thiết và quan trọng trong mọi tổ chức, đặc biệt là các ngân hàng thương mại.
1.2.2. Mục tiêu và vai trò của kiểm soát nội bộ trong ngân hàng.
Mỗi đơn vị khi xây dựng hệ thống kiểm soát nộ bộ đều đặt ra cho mình một mục tiêu khác nhau từ đó xác định các chiến lược cần thực hiện. Đó có thể là mục tiêu chung cho toàn đơn vị hay mục tiêu cụthể cho từng hoạt động, từng bộ phận trong đơn vị. Nhưng một hệ thống kiểm soát nội bộ cần xây dựng và vận hành sao cho đạt được ít nhất ba mục tiêu cơ bản sau:
- Mục tiêu về hoạt động: hệ thống kiểm soát nội bộ phải đạt được sự hữu hiệu và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực.
- Mục tiêu về báo cáo tài chính: là hướng đến tính trung thực và tính đáng tin cậy của báo cáo tài chính.
- Mục tiêu về sự tuân thủ: hướng đến việc tuân thủ pháp luật và các quy định.
1.2.3. Sự cần thiết của kiểm soát nội bộ đối với tổ chức tín dụng.
Trong một tổ chức bất kỳ, sự thống nhất và xung đột quyền lợi chung – quyền lợi riêng của người sử dụng lao động với người lao động luôn tồn tại song hành. Nếu không có hệ thống kiểm soát nội bộ, làm thế nào để người lao động không vì quyền lợi riêng của mình mà làm những điều thiệt hại đến lợi ích chung của toàn tổ chức, của người sử dụng lao động? Làm sao quản lý được các rủi ro?Làm thế nào có thề phân quyền, ủy nhiệm, giao việc cho cấp dưới một cách chính xác, khoa học chứ không phải chỉ dựa trên sự tin tưởng cảm tính?Đó là những vấn đề khó có thể giải quyết nếu như không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh sẽ đem lại cho tổ chức rất nhiều lợi ích, giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong SXKD, tránh được các sai sót vô tình, các rủi ro làm chậm kế hoạch kinh doanh,gây ra thiệt hại không mong muốn, bảo vệ tài sản khỏi bị hư hỏng, mất mát bởi hao hụt, gian lận, lừa gạt, trộm cắp. Đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính.Đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy, quy chế, quy trình hoạt của tổ chức chức cũng như các quy định của luật pháp.Đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đặt ra. Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ là một việc làm tất yếu đối với các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế hiện nay, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra gian lận, sai sót, ranh giới giữa cái đúng và cái sai rất mong manh thì đây là vấn đề cấp thiết và quan trọng cần phải được đặt lên hàng đầu để hạn chế tối thiểu mọi rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra.
1.2.4. Các yếu tố cần thiết của một hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng.
Mỗi đơn vị đều có một hệ thống kiểm soát nội bộ riêng biệt, được thiết lập và vận hành với những mục tiêu khác nhau. Song bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng phải xây dựng dựa trên các bộ phận sau:
- Môi trường kiểm soát.
- Đánh giá rủi ro.
- Hoạt động kiểm soát.
- Thông tin và truyền thông.
- Giám sát.
1.2.4.1. Môi trường kiểm soát.
Môi trường kiểm soát: “môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một tổ chức, tác động đến ý thức của mọi người trong một đơn vị, là nền tảng cho các bộ phận khác trong một hệ thống kiểm soát nội bộ” (Theo PGS.TS Trần Thị Giang Tân (chủ biên) (2009), Kiểm soát nội bộ,Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, NXB Phương Đông).
Môi trường kiểm soát ảnh hưởng và bị chi phối bởi các nhân tố:
- Tính trung thực và giá trị đạo đức: Tính trung thực và giá trị đạo đức là nhân tố quan trọng của môi trường kiểm soát, nó tác động đến việc thiết kế, thực hiện và giám sát các nhân tố khác của kiểm soát nội bộ. Ứng xử có đạo đức và tính trung thực của toàn nhân viên trong một tổ chức là văn hóa của tổ chức, làm nên danh tiếng của tổ chức đó. Và danh tiếng của tổ chức là tài sản vô giá, vì vậy các chính sách, quy định về tính trung thực và giá trị đạo đức cần được thiết lập cao hơn, không chỉ đơn thuần là để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật.
- Cam kết về năng lực: Năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính cá nhân của một con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt kết quả cao. Thuộc tính cá nhân cần có của một người đối với từng hoạt động, từng nhiệm vụ phụ thuộc vào sự xét đoán của nhà quản lý và các mục tiêu của tổ chức, về kế hoạch và chiến lược đạt được mục tiêu đó. Vì vậy nhà quản lý cần xác định rõ yêu cầu về năng lực cho một công việc nhất định và cụ thể hóa nó thành từng yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể, đồng thời cân nhắc giữa năng lực cần thiết và chi phí phải bỏ ra.
- Hội đồng quản trị và ủy ban kiểm toán: Môi trường kiểm soát chịu ảnh hưởng đáng kể bởi Hội đồng quản trị và ủy ban kiểm toán. Sự độc lập của hội đồng quản trị, ủy ban kiểm toán, ban kiểm soát và các thành viên tham gia trong Hội đồng quản trị càng cao thì môi trường kiểm soát càng hữu hiệu. Do vậy hội đồng quản trị cần năng động, hướng dẫn, giám sát hoạt động quản lí.
- Triết lí quản lí và phong cách điều hành của nhà quản lý: Triết lý quản lý và phong cách điều hành tác động đến cách thức đơn vị được điều hành. Triết lý quản lý và phong cách điều hành thể hiện ở việc đơn vị chấp nhận rủi ro ở mức độ nào, chấp
nhận như thế nào và duy trì các thủ tục kiểm soát đầy đủ hơn để thích nghi với môi trường kinh doanh của mình.
- Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức cung cấp khuôn khổ mà trong đó các hoạt động của ngân hàng cũng như các đơn vị được lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát và giám sát. Để thiết lập cơ cấu tổ chức thích hợp, các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp phải xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với từng hoạt động, xác định cấp bậc báo cáo thích hợp.
- Phân định quyền hạn và trách nhiệm: Phân định quyền hạn và trách nhiệm là xác định mức độ tự chủ, quyền hạn của cá nhân hay từng nhóm trong việc đề xuất và giải quyết các vấn đề, trách nhiệm báo cáo với các cấp liên quan. Việc phân định thường thông qua các chính sách, văn bản cụ thể, áp dụng với các nhân viên chủ chốt.
- Chính sách nhân sự và việc áp dụng vào thực tế: Chính sách nhân sự là thông điệp ngân hàng, của tổ chức về yêu cầu đối với tính chính trực, hành vi đạo đức và năng lực mà tổ chức mong đợi từ nhân viên. Chính sách này biểu hiện trong thực tế thông qua việc tuyển dụng, hướng nghiệp, đào tạo đánh giá, tư vấn, động viên, khen thưởng và kỷ luật.
1.2.4.2. Đánh giá rủi ro.
Mỗi đơn vị, đặc biệt là các ngân hàng luôn phải đối phó với hàng loạt các rủi ro bên trong và bên ngoài đơn vị. Điều kiện tiên quyết để đánh giá rủi ro là thiết lập mục tiêu.Mục tiêu phải được thiết lập ở mức độ khác nhau và nhất quán. Đánh giá rủi ro là quá trình nhận dạng và phân tích rủi ro ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu, từ đó có thể quản trị được rủi ro. Cơ chế nhận dạng rủi ro, đối phó với rủi ro phải có sự liên kết với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, đặc điểm và hoạt động kinh doanh. Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, luôn có nhiều biến động bất thường vì vậy các ngân hàng cần lưu ý vấn đề này.
Xác định mục tiêu có thể chính thức hay không chính thức, trình bày rõ ràng hay ngầm hiểu. Mục tiêu thường phân ra ba loại: mục tiêu hoạt động, mục tiêu báo cáo tài chính, mục tiêu tuân thủ.
Dựa trên những mục tiêu đã xác lập, nhà quản lý cần nhận dạng và phân tích rủi ro để có thể đưa ra các biện pháp để quản trị chúng. Nhận dạng rủi ro là một quá trình