Những Vấn Đề Lý Luận Cơ Bản Về Đăng Ký Giao Dịch Bảo Đảm Và Pháp Luật Về Đăng Ký Giao Dịch Bảo Đảm Tiền Vay

6. Bố cục của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đăng ký giao dịch bảo đảm và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY


1.1. Một số khái niệm trong đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm

Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự.

Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật Việt Nam - 3

Ở Việt Nam, khái niệm giao dịch bảo đảm được nhìn nhận chủ yếu dưới giác độ là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng.

Trước khi BLDS ra đời khái niệm về giao dịch bảo đảm lần đầu tiên được biết đến dưới góc độ là đối tượng của hoạt động đăng ký nhằm mục đích công khai hoá các nội dung liên quan đến giao dịch bảo đảm như Bên chủ thể quyền (giao dịch) cũng như các quyền (giao dịch) tồn tại từ trước đối với tài sản bảo đảm theo đơn đề nghị của người yêu cầu.

Với sự ra đời của BLDS 1995, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã được quy định đầy đủ hơn, bao gồm các quy định chung về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và các quy định cụ thể về từng biện pháp như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm. Tuy nhiên, một số quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có hiệu lực thi hành song song với BLDS 1995 đã làm cho tình trạng cùng tồn tại các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong pháp luật dân sự và pháp luật kinh tế có nhiều quan điểm và nội dung pháp lý không thống nhất. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, để thi hành các quy định của BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong

quan hệ tín dụng, Ngân hàng nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng về lĩnh vực này.

BLDS 2005 đưa ra khái niệm “giao dịch bảo đảm” một cách bao quát hơn, theo đó “giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại Khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này” [37, Điều 323, Khoản 1]. Các biện pháp bảo đảm đó là: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp.

Trong giao dịch bảo đảm, bên bảo đảm dùng tài sản của mình để bảo đảm một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Trong đó, bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp. Còn bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ dân sự mà việc thực hiện quyền đó được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm, bao gồm bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược, bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong trường hợp tín chấp và bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại trong trường hợp ký quỹ.

Như vậy, giao dịch bảo đảm là các giao dịch được xác lập nhằm tạo ra những “phương thức bảo đảm” cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các giao dịch dân sự như hợp đồng tín dụng và từ các căn cứ pháp lý khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Giao dịch bảo đảm là sự thoả thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm dùng tài sản của mình (tài sản bảo đảm) để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch dân sự. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thoả thuận, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

1.1.2. Khái niệm giao dịch bảo đảm tiền vay

Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các Tổ chức tín dụng đã đưa ra khái niệm về bảo đảm tiền vay: “Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay” [14, Điều 2, Khoản 1].

Đến Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm được ban hành để thay thế Nghị định 178/1999/NĐ-CP để thống nhất các giao dịch bảo đảm nói chung với bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Nghị định 163 được ban hành sau khi BLDS 2005 có hiệu lực, nhằm cụ thể hóa điều 318 của BLDS 2005 quy định các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ dân sự.

Điều 318. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: a) Cầm cố tài sản; b) Thế chấp tài sản; c) Đặt cọc; d) Ký cược; đ) Ký quỹ; e) Bảo lãnh; g) Tín chấp [37, Điều 318].

Tuy nhiên, tại Nghị định 163 không có quy định nào nêu lên định nghĩa về giao dịch bảo đảm hoặc giao dịch bảo đảm tiền vay mà chỉ liệt kê các biện pháp bảo đảm như tại điều 318 BLDS 2005. Đây cũng là đặc thù một số quy định trong pháp luật ở Việt Nam chỉ mang tính liệt kê, chứ không đưa ra định nghĩa cụ thể.

Căn cứ vào khái niệm của giao dịch bảo đảm và tiếp cập theo chức năng của các giao dịch bảo đảm tiền vay, chúng ta có thể định nghĩa giao dịch bảo đảm tiền vay như sau: “Giao dịch bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cho vay nhận bảo đảm bằng quyền đối với tài sản của bên vay hoặc bên thứ ba nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ trong một thời gian nhất định trong tương lai”.

Như vậy, giao dịch bảo đảm tiền vay có thể được xác lập giữa bên cho

vay với bên vay hoặc với một bên thứ ba nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho bên vay khi đến hạn trả nợ theo thỏa thuận.

1.1.3. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay

“Tài sản” theo ý nghĩa pháp lý được thể hiện dưới các dạng là: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [37, Điều 163]. Bên cạnh đó, các quyền tài sản cũng có thể là tài sản đảm bảo tiền vay.

Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về tài nguyên [37, Điều 322].

Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm đưa ra khái niệm về tài sản bảo đảm: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm” [16, Điều 3].

Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và được phép giao dịch [16, Điều 4].

Điều kiện của tài sản được dùng để đảm bảo là cho việc thực hiện nghĩa vụ phải thỏa mãn“vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch” [37].

Theo quy định trên, “tài sản đảm bảo phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm” có điểm mâu thuẫn nội tại với quy định “tài sản hình thành trong tương lai”. Bởi thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, thì tài sản này vẫn chưa hoàn toàn thuộc sở hữu của bên bảo đảm.

Như vậy, tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm hoặc tài sản hình thành trong tương lai được bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận bảo đảm.

1.1.4. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cơ chế điều tiết việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, với mục tiêu công bố công khai quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm. Qua đó, các cá nhân, tổ chức có nguồn thông tin để tìm hiểu trước khi xem xét, quyết định giao kết hợp đồng, cho vay vốn. Với vai trò bảo vệ nhà đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn trong hoạt động tín dụng, thương mại, đăng ký giao dịch bảo đảm còn làm căn cứ để xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp một tài sản được bảo đảm để thực hiện cho nhiều nghĩa vụ theo thứ tự thời gian công khai hóa, nó tồn tại như một yếu tố tự nhiên trong nền kinh tế thị trường.

Mặt khác, đăng ký giao dịch bảo đảm là việc nhà nước (hoặc các chủ thế khác do Nhà nước ủy quyền) công nhận một tình trạng đã được bảo đảm cho một nghĩa vụ hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự nhất định. Giá trị pháp lý thực sự của hành vi đăng ký giao dịch bảo đảm không phải ở chỗ nó nhằm chứng minh sự tồn tại trên thực tế cũng như về mặt pháp lý của giao dịch bảo đảm đã đăng ký, mà chính là ở chỗ nó thừa nhận một tài sản đã được chủ sở hữu đem bảo đảm cho việc thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự của chính họ hoặc người khác đối với bên có quyền. Hành vi này sẽ là sự kiện pháp lý để làm phát sinh quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm trong

giao dịch bảo đảm đã đăng ký, so với bên nhận bảo đảm khác trong các giao dịch bảo đảm chưa được đăng ký. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc coi hành vi đăng ký giao dịch bảo đảm là sự kiện pháp lý để “đánh dấu” thứ tự hình thành các giao dịch bảo đảm đã được xác lập đối với một tài sản và từ đó xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm đối với các chủ nợ có bảo đảm bằng một tài sản. Từ đó có thể nhận thấy, chứng từ chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những yếu tố quan trọng để Tòa án giải quyết các tranh chấp.

Tại Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội trong hơn hai thập kỷ vừa qua, vấn đề xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đăng ký giao dịch bảo đảm đã và đang được thực hiện có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thực hiện những cải cách về chính sách và thể chế nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã có những phát triển đáng kể trong vài năm trở lại đây, song cho đến thời điểm hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chưa có một khái niệm chính thức về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về Đăng ký giao dịch bảo đảm thì: “Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dung tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm” [20, Điều 2]. Đăng ký

giao dịch bảo đảm là việc một trong các bên tham gia quan hệ bảo đảm tiến

hành đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tránh việc chuyển dịch chủ sở hữu của tài sản trong thời gian đăng ký.

Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm công khai hoá tình

trạng pháp lý của tài sản bảo đảm và là một trong những cách thức làm phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định. Thông tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp là chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm và là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [27, tr.15].

1.2. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

1.2.1. Đặc điểm chung của đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay

Với mục đích làm minh bạch hoá thông tin về giao dịch bảo đảm, tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm có những đặc điểm pháp lý như sau:

Thứ nhất, đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Tuy pháp luật hiện hành quy định khác nhau về trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản và bất động sản, nhưng mục tiêu chung của các quy định này vẫn là nhằm công khai hoá quyền lợi của bên nhận bảo đảm đối với bên bảo đảm.

Thứ hai, đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động dịch vụ công của Nhà nước. Hiện nay, ở các nước cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và đăng ký bất động sản nói riêng là cơ quan độc lập với cơ quan quản lý nhà nước về giao dịch bảo đảm hoặc bất động sản. Đây là những cơ quan chuyên môn không thực hiện chức năng quản lý nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc “lấy thu, bù chi”. Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm được xác định theo loại tài sản bảo đảm, theo địa giới hành chính – lãnh thổ hoặc theo địa vị pháp lý của bên nhận bảo đảm (tổ chức hoặc cá nhân).

Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, mỗi quốc gia thiết lập một mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm phân tán

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 25/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí