Thực Trạng Pháp Luật Và Thực Tiễn Thực Hiện Pháp Luật Về Đăng Ký Giao Dịch Bảo Đảm

định lạc hậu và phiền toái về giao dịch bảo đảm như đã phân tích ở trên. Nghị định 11/2012/NĐ-CP đã được ban hành và đã tạo được sắc diện mới trong quan hệ cho vay có bảo đảm, góp phần làm cho các giao dịch bảo đảm có tính an toàn và dễ dàng xử lý hơn. Có thể tóm tắt một số điểm mới tiến bộ trong các Nghị định nêu trên như sau:

(i) Động sản cũng là đối tượng của thế chấp tài sản. Việc thế chấp động sản có thể được thực hiện với cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình với bất cứ tính chất như thế nào, kể cả tài sản hình thành trong tương lai;

(ii) Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm không bao gồm quyền sử dụng đất. Theo đó, các tài sản gắn liền với đất như nhà ở, công trình chỉ được thế chấp khi đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

(iii) Tài sản bảo đảm là động sản có thể được mô tả một cách khái quát.

(iv) Các bên có thể thoả thuận về thay đổi về thứ tự ư tiên mà không cần phải đăng ký thông báo về sự thoả thuận này.

Bên cạnh đó, một loạt các nghị định và các thông tư khác có liên quan đến giao dịch bảo đảm đã được ban hành tạo cơ sở cho quá trình thực thi, cụ thể:

- Nghị định số 70/2007/NĐ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về đăng ký quốc tịch và đăng ký các quyền đối với tàu bay dân dụng;

- Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 06 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sau đây gọi là Nghị định số 71/2010/NĐ-CP);

- Thông tư số 06/2006/TT-BTP ngày 28 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp;

- Thông tư số 03/2007/TT-BTP ngày 17 tháng 5 năm 2007 của Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 06/2006/TT-BTP ngày 28 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về thẩm

quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp;

- Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17 tháng 5 năm 2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần có bảo lưu quyền sở hữu của bên bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ;

- Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp, Bộ tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;

- Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư pháp, Bộ tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;

- Thông tư liên tịch số 05/2007/TTLT-BTP-BXD-BTNMT-NHNN ngày 21/5/2007 của Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội dung về đăng ký thế chấp nhà ở;

- Thông tư liên tịch 15/2013/TTLT-BTP-BGTVT-BTNMT-BCA của Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an về hướng dẫn việc trao đổi, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền lưu hành tài sản.

Thứ nhất, Thông tư số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT ngày 25/4/2014 hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai theo quy định tại Nghị định số 71/2010/NĐ-CP. Thông tư này hướng dẫn thủ

tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai (bao gồm thủ tục thế chấp, công chứng hợp đồng thế chấp và đăng ký thế chấp) của tổ chức, cá nhân để vay vốn tại tổ chức tín dụng mua nhà ở trong dự án phát triển nhà ở, dự án đầu tư xây dựng khu đô thị của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản theo quy định tại Khoản 2 Điều 61 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP.

Thứ hai, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm. Mặc dù Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP bước đầu đã có những quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.

Đặc biệt, ngày 24/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2015 đã có những đổi mới nhất định về vấn đề các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay nói riêng.

Với các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, và đặc biệt là pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay ở Nam đã có những bước tiến quan trọng, tạo thuận lợi cho các tổ chức, đáp ứng yêu cầu, số lượng các giao dịch trong đời sống dân sự, kinh doanh. Hệ thống pháp luật này thực sự tạo được lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần khai thông thị trường vốn, đảm bảo an toàn cho sự vận hành của hệ thống tín dụng Việt Nam.

Kết luận chương 1


Tóm lại, đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những phương thức hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên có quyền/các ngân hàng thương mại với tư cách là bên nhận bảo đảm trong quan hệ tín dụng nói riêng và quan hệ dân sự nói chung. Giá trị pháp lý và ý nghĩa, vai trò quan trọng của hoạt động này đã và đang được kiểm nghiệm trên thực tế đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại thì việc đăng ký không những là căn cứ để các ngân hàng truy đòi tài sản bảo đảm mà còn giúp các tổ chức tín dụng có được thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử lý tài sản bảo đảm so với các chủ nợ khác. Qua đó, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tín dụng phát triển nhanh, ổn định đồng thời tạo thuận lợi cho mọi hoạt động xét xử của toà án đối với các tranh chấp về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, thực trạng các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và thực tiễn thực hiện các quy định trong lĩnh vực này thời gian qua của các chủ thể tham gia giao dịch và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký được thực hiện như thế nào? Nội dung này tác giả xin được trình bày cụ thể trong Chương 2 của luận văn.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TIỀN VAY


2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1.1. Tổ chức và thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1.1.1. Thực trạng pháp luật về tổ chức và thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

Với Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, hệ thống cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam đã được thiết lập và hoạt động trên thực tế với vai trò của một trong những thiết chế quan trọng bảo đảm tính an toàn pháp lý cho các giao dịch, mà trước hết là các giao dịch trong thị trường tài chính – tiền tệ ở Việt Nam. Hệ thống các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta được tổ chức như sau:

- Cục Hàng không Việt Nam thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm về cầm cố, thế chấp tàu bay;

- Chi cục hàng hải hoặc Cảng vụ hàng hải thuộc Cục Hàng hải Việt Nam thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm về thế chấp tàu biển;

- Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;

- Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển và các tài sản khác không thuộc thẩm quyền đăng ký của các cơ quan).

Thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm được xác định căn cứ theo loại tài sản bảo đảm là bất động sản, tàu bay, tàu biển hay các động sản khác. Mô hình hệ thống các cơ quan thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm có thể được khái quát bằng sơ đồ dưới đây:

Sơ đồ 2 1 Về hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm Chúng ta có 1


Sơ đồ 2.1: Về hệ thống các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

Chúng ta có thể thấy rằng, trong hệ thống tổ chức các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm hiện hành ở nước ta chỉ có Trung tâm đăng ký quốc gia giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là cơ quan thuộc Bộ Tư pháp, còn các cơ quan đăng ký khác đều là những cơ quan được giao nhiệm vụ đăng ký đối với từng loại tài sản riêng biệt.

2.1.1.2. Thực tiễn thi hành pháp luật trong tổ chức đăng ký của các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

Trong thời gian qua, hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực sau đây [5]:

Thứ nhất, đối với hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển) tại các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Bộ Tư pháp.

Kết quả thống kê cho thấy, số lượng các giao dịch bảo đảm được đăng ký trong các năm không ngừng tăng lên, số lượng đăng ký năm sau luôn tăng

so với năm trước, duy trì đều đặn qua các năm từ 50% đến 70% một năm. Kết quả đăng ký của 3 Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng) từ năm 2005 đến năm 2011 theo báo cáo của Bộ tư pháp thể hiện như sau:

Bảng 2.1: Kết quả thống kê số lượng các giao dịch bảo đảm được đăng ký từ năm 2005 đến năm 2011

Năm

Đăng ký giao

dịch bảo đảm

Đăng ký

hợp đồng

Tổng các giao dịch, hợp

đồng được đăng ký

2005

40.189

2.892

43.081

2006

54.409

2.835

57.244

2007

96.816

3.062

99.878

2008

115.770

3.098

118.868

2009

182.842

901

183.743

2010

201.318

2.507

203.825

30/11/2011

166.381

1.515

167.896

Tổng

857.725

16.810

874.535

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

(Nguồn: Bộ Tư pháp, Báo cáo về thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, 2011, Hà Nội).

Căn cứ số liệu thống kê và kết quả thu được trong công tác đăng ký, cung cấp thông tin của các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản cho thấy lợi ích của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm đã được sự thừa nhận và đánh giá tích cực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại trong việc xem xét và đưa ra quyết định vay vốn đối với khách hàng.

Thứ hai, đối với hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay tại Cục hàng không Việt Nam

Theo số liệu thống kê, trong hai năm 2003 – 2004, Cục Hàng không Việt Nam mới chỉ thực hiện đăng ký được 09 giao dịch bảo đảm bằng tàu

bay, trong đó năm 2003 có 03 giao dịch và năm 2004 có 06 giao dịch được đăng ký. Trong ba năm từ 2007 – 2009, Cục Hàng không Việt Nam thực hiện đăng ký 16 giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, cụ thể năm 2007 với 07 giao dịch, năm 2008 là 04 giao dịch, năm 2009 là 05 giao dịch. Trong năm 2011 có 15 giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được đăng ký tại Cục Hàng không Việt Nam.

Qua số liệu thống kê cho thấy các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay ở Việt Nam hiện không nhiều, do vậy, số lượng hồ sơ xin đăng ký thế chấp bằng tàu bay là không đáng kể và không thường xuyên trong thời gian qua.

Thứ ba, đối với hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu biển tại Cơ quan đăng ký tàu biển Việt Nam

Theo thống kê của Cơ quan đăng ký tàu biển, số lượng tàu biển được đăng ký cầm cố, thế chấp năm 2003 là 76 trường hợp, năm 2004 là 123 trường hợp. Từ năm 2007 đến năm 2009 tại 3 cơ quan đăng ký tàu biển khu vực đã tiếp nhận và thực hiện 812 trường hợp đăng ký thế chấp tàu biển, trong đó năm 2007 là 229 trường hợp, năm 2008 là 273 trường hợp, năm 2009 là 310 trường hợp. Năm 2011 là 709 trường hợp.

Trên cơ sở số liệu thống kê cho thấy các giao dịch bảo đảm bằng tàu biển ở Việt Nam tuy không nhiều, số lượng hồ sơ yêu cầu đăng ký thế chấp không đáng kể nhưng có xu hướng ngày càng tăng lên trong từng năm.

Thứ tư, hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất

Tính đến tháng 12/2009, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tại các địa phương trong cả nước đã tiến hành xây dựng và tổ chức hoạt động hệ thống các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, bao gồm: thành lập 63 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh và 513 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện;

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 25/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí