Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014 - 2

kém. Nơi đây, điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi: thường gặp thiên tai, mưa lũ, sạt lở gây trở ngại cho đời sống nhân dân, hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Nhận thức được những thuận lợi và khó khăn của nông thôn Phú Thọ, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã tập trung đề ra nhiều chủ trương, chính sách, các biện pháp để giải quyết vấn đề này, một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cùng với cả nước nói chung, đó là tập trung xây dựng nông thôn mới.

Việc phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, khách quan quá trình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bởi chỉ có phân tích, đánh giá khách quan những thuận lợi, khó khăn, những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ mới có cơ sở khoa học, căn cứ thực tiễn để xác định nhiệm vụ, giải pháp hữu hiệu, nhằm thực hiện tốt hơn nữa công cuộc xây dựng nông thôn mới ở Phú Thọ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay và trong tương lai. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của vấn đề đó, tôi quyết định chọn: “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014” làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề nông nghiệp, nông thôn là vấn đề quan trọng trong suốt quá trình phát triển đất nước, bởi vậy đã có không ít công trình nghiên cứu của các tác giả về vấn đề này. Liên quan đến đề tài có một số công trình sau: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của tác giả PGS.TS Chu Hữu Quý, PGS.TS Nguyễn Kế Tuấn, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001. Trong công trình khoa học của mình, tác giả đã làm rõ: Một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo yêu cầu rút ngắn;

nghiên cứu thực trạng thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; đưa ra con đường, bước đi và các giải pháp chiến lược đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.

Công trình “Nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam – 20 năm đổi mới và phát triển” do tác giả Đặng Kim Sơn biên soạn, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2007. Và cuốn “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam hôm nay và mai sau” cũng do tác giả Đặng Kim Sơn biên soạn. Các công trình đã đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trước khi đổi mới, nghiên cứu quá trình đổi mới thể chế, đổi mới chính sách, quá trình chuyển dịch cơ cấu và phát triển nông nghiệp, nông thôn; nêu lên những thành tựu đạt được, những khó khăn còn tồn tại và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong tương lai.

Cũng có nhiều bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí của Trung ương và địa phương về xây dựng nông thôn mới như “Xây dựng nông thôn mới vùng chiêm trũng” của tác giả Nhật Tân, trên Tạp chí Cộng sản số 23, năm 2007. Bài viết đề cập đến những khó khăn, thuận lợi trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng bằng chiêm trũng. Bài viết của Hồ Xuân Hùng trên Tạp chí cộng sản, số 819 “Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng và nhân dân ta”. Tác giả đã trình bày chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng và nội dung của chương trình. Qua phân tích cụ thể tác giả khẳng định xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cần sự chung tay góp sức của Đảng và nhân dân.

Khóa luận cử nhân, luận văn thạc sĩ cũng có nhiều công trình lấy vấn đề xây dựng nông thôn mới làm đề tài nghiên cứu như: Khóa luận cử nhân lịch sử “Xây dựng nông thôn mới ở xã Trung Nghĩa (Thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên) từ năm 2004 đến năm 2011” của Phạm Thị Mai Ly, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2012. Tác giả nghiên cứu về xây dựng nông thôn mới ở xã Trung Nghĩa, Hưng Yên khi

chương trình mới bắt đầu được triển khai thực hiện. Công trình “Đảng bộ huyện Thanh Thủy (tỉnh Phú Thọ) lãnh đạo tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới ở địa phương trong những năm 2010 – 2011” của Hạ Thị Anh, khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, công trình “Đảng bộ huyện Tiên Lãng (Thành phố Hải Phòng) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2013” của Đoàn Thị Duyên, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2014. Luận văn “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2010” của Vũ Thị Mười, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2012, luận văn: “Báo chí mặt trận với việc tuyên truyền về nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2013” của Trần Thị Phương Oanh, Khoa Báo chí học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2013. Có thể thấy vấn đề nông nghiệp, nông thôn đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh với mục đích, phương pháp khác nhau. Qua đó, chúng ta có thể hiểu được một cách sâu sắc chủ trương của Đảng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn đất nước, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, đối với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đang được thực hiện trên quy mô cả nước, vì là chương trình mới nên vẫn còn nhiều những bất cập, khó khan, những thành công ở một số xã thí điểm xây dựng nông thôn mới trên cả nước mới chỉ là bước đầu của quá trình, do vậy vấn đề này chưa có cơ hội được quan tâm nhiều. Dưới góc độ lịch sử Đảng, vấn đề xây dựng nông thôn mới ở địa phương còn ít công trình nghiên cứu một cách cụ thể, hệ thống, đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về quá trình Phú Thọ xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến hiện tại. Vì vậy, luận văn hi vọng đóng góp một phần cái nhìn đối với thực tiễn thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới của địa phương nói chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn

Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014 - 2

Trên cơ sở nghiên cứu chủ trương về nông nghiệp, nông thôn của Đảng, và thực tiễn xây dựng nông thôn mới của đất nước, luận văn nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014 nhằm xác định giải pháp xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tiếp theo.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Trình bày hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về yêu cầu xây dựng nông thôn mới và vận dụng thực hiện ở Phú Thọ.

- Trình bày chủ trương của Đảng bộ Phú Thọ về xây dựng nông thôn mới

- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới những năm 2008 đến năm 2014.

- Khẳng định những thành tựu bước đầu, và một số kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của tỉnh Phú Thọ.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 – 2014.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những điều kiện để Phú Thọ xây dựng nông thôn mới, chủ trương của Đảng bộ Phú Thọ về xây dựng nông thôn mới qua đó nghiên cứu quá trình lãnh đạo thực hiện, kết quả và kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của Phú Thọ từ năm 2008 đến năm 2014.

- Không gian: Luận văn nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Phú Thọ.

- Thời gian: Luận văn lấy mốc thời gian từ năm 2008 là năm bắt đầu thực hiện xây dựng nông thôn mới của Trung ương. Năm 2014 là năm tổng kết 5 năm thực hiện xây dựng nông thôn mới của tỉnh Phú Thọ.

Để làm nổi bật quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới ở Phú Thọ từ năm 2008 đến năm 2014, tác giả có đề cập đến thời gian trước năm 2008 ở mức độ cần thiết.

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tài liệu

- Tài liệu: Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập, Văn kiện các Đại hội, hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, các cấp bộ đảng, chính quyền và các ban ngành trong tỉnh; các sách đã xuất bản, các công trình khoa học, tạp chí, sách báo nghiên cứu về vấn đề nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

- Tài liệu lưu trữ tại: Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ, Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ, Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ, UBND các xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: phương pháp luận lịch sử, phương pháp logic, tổng hợp và phân tích số liệu khảo sát, so sánh, khái quát hóa.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những chủ trương của Đảng đối với việc xây dựng nông thôn mới; cũng góp phần làm căn cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối xây dựng và phát triển nông thôn mới của Đảng trong thời gian tới.

Luận văn góp phần làm cơ sở vận dụng, đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công cuộc xây dựng nông thôn mới của tỉnh Phú Thọ nói riêng và đất nước nói chung.

Luận văn góp phần cung cấp thêm tư liệu cho công tác nghiên cứu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung, xây dựng nông thôn mới nói riêng, và công tác giảng dạy lịch sử ở địa phương.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương:

Chương 1: Những điều kiện để thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới ở Phú Thọ

Chương 2: Quá trình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ từ năm 2008 đến năm 2014

Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm chỉ đạo

Chương 1

NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở PHÚ THỌ

1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội tỉnh Phú Thọ

1.1.1. Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý

Phú Thọ là tỉnh miền núi phía Bắc, nằm ở vị trí giữa 20055’- 21043’ vĩ

độ Bắc và 1050 kinh độ Đông, phía Bắc giáp với tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái, phía Nam giáp Hòa Bình, phía Đông giáp Vĩnh Phúc và Hà Nội, phiá Tây giáp với tỉnh Sơn La. Tỉnh Phú Thọ tái lập ( 1/1/1997) có diện tích tự nhiên 3.465 km2 dân số 1.261.900 người, mật độ trung bình 373 người/km2 [2, tr.21]. Toàn tỉnh có 13 huyện, thành, thị (thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, 11 huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Hạ Hòa, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh), hơn 270 xã, phường,

thị trấn. Bao gồm 21 dân tộc anh em sinh sống, như dân tộc Mường, dân tộc Dao, người Cao Lan, người Kinh (chiếm đa số với hơn 1,1 triệu người).v.v..

Phú Thọ cách Hà Nội 80 km, là cửa ngõ phía tây bắc của thủ đô, với vị trí “ngã ba sông” (nằm ở nơi hợp lưu của ba sông: sông Lô, sông Thao và sông Đà), và là địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc, bởi vậy Phú Thọ là cầu nối của các tỉnh đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi Tây Bắc và Đông Bắc.

Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của tỉnh, đồng thời là một trong năm trung tâm lớn của vùng miền núi phía Bắc, có các tuyến trục giao thông quan trọng chạy qua như Quốc lộ số 2 (chạy từ Hà Nội qua Việt Trì đi Tuyên Quang – Hà Giang), đặc biệt là tuyến đường cao tốc Hà Nội – Việt Trì – Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc). Ngoài ra, với hệ thống đường sông, đường sắt các tỉnh phía Tây Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới đi Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để tỉnh Phú Thọ giao lưu, hợp tác kinh tế với bên ngoài.

Địa hình

Phú Thọ có địa hình rất đặc biệt: Là một tỉnh miền núi, nhưng địa hình vừa có tính chất miền núi, trung du, lại vừa có tính chất đồng bằng. Đoạn sông Hồng chảy qua Phú Thọ (sông Thao) đã chia Phú Thọ thành hai tiểu vùng có những đặc điểm khác nhau và hình thành nên địa hình mang ba tính chất trên.

Tiểu vùng miền núi: chiếm tới hai phần ba diện tích toàn tỉnh, gồm đất đai các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Thanh Thủy, Tam Nông, Sông Thao và một phần huyện Hạ Hòa. Vùng chủ yếu là đồi núi nên rất có tiềm năng để phát triển lâm nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển kinh tế trang trại.

Tiểu vùng trung du đồng bằng: bao gồm các huyện Đoan Hùng, một phần đất huyện Hạ Hòa, Thanh Ba, Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Thủy, thành phố Việt Trì, và thị xã Phú Thọ. Địa hình có nhiều gò đồi nối tiếp nhau, bị chia cắt nhiều, xen kẽ là đồng ruộng và dải đồng bằng ven sông Hồng, sông Lô. Nhờ nằm ven sông Hồng, sông Lô nên miền này hàng năm được phù sa bồi đắp, đất tốt rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp với nhiều cánh đồng lớn, vựa lúa lớn của tỉnh như để trồng các loại cây công nghiệp, phát triển cây lương thực và chăn nuôi

Khí hậu

Phú Thọ nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông khô và lạnh. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng mưa trung bình khoảng 1600 – 1800 mm/năm. Độ ẩm trung bình khoảng 85% - 87%. Nhìn chung, khí hậu Phú Thọ thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, các loại cây ngắn ngày, cây công nghiệp dài ngày, chăn nuôi gia súc, có khả năng cho năng suất và chất lượng cao. Hạn chế nổi bật của khí hậu Phú Thọ là vùng dễ bị ngập úng vào mùa mưa và hạn vào mùa khô. Để khắc phục hạn chế này cần giải quyết tốt về thủy lợi và bố trí hệ thống cây trồng phù hợp với từng vùng sinh thái, cần phải tìm ra biện pháp

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 10/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí