Các Công Trình Nghiên Cứu Chung Về Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng Ở Doanh Nghiệp Trên Phạm Vi Cả Nước


chặt chẽ, toàn diện cho nên công tác xây dựng TCCSĐ đã đạt được những kết quả quan trọng; rút ra 8 kinh nghiệm: Thứ nhất, thường xuyên bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Thứ hai, tìm tòi sáng tạo những mô hình mới về tổ chức và hoạt động. Thứ ba, đổi mới hình thức, biện pháp giáo dục và quản lý đảng viên theo hướng phù hợp, hiệu quả. Thứ tư, quy định rõ trách nhiệm phục vụ nhân dân của TCCSĐ và đảng viên. Thứ năm, xây dựng cơ chế nhằm bảo vệ đảng viên. Thứ sáu, cụ thể hóa trách nhiệm chỉ đạo công tác xây dựng chi bộ. Thứ bảy, chăm lo xây dựng và đào tạo bí thư chi bộ. Thứ tám, bảo đảm kinh phí cho hoạt động của TCCSĐ [119, tr.63 - 65].

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu chung về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp trên phạm vi cả nước

Xây dựng TCCSĐ ở doanh nghiệp vừa là nội dung thường xuyên của công tác xây dựng Đảng, vừa là đòi hỏi thiết yếu của việc đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Vì vậy, vấn đề xây dựng TCCSĐ ở doanh nghiệp lâu nay được khá nhiều các nhà khoa học, nhà quản lý và tổ chức quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.

Trịnh Đức Hồng, Dương Xuân Ngọc (2002), Về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước [89]. Trên cơ sở khảo sát ở một số doanh nghiệp nhà nước, các tác giả đã bước đầu đánh giá sơ bộ về thực trạng tổ chức và phương thức lãnh đạo của các TCCSĐ nói chung; đề xuất sáu giải pháp quan trọng chủ yếu nhằm đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của các TCCSĐ trong doanh nghiệp nhà nước, trong đó nhấn mạnh giải pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vị trí, tầm quan trọng của TCCSĐ trong doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở.


Nguyễn Đức Hà (2010), Một số vấn đề về xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay [79]. Trong cuốn sách, tác giả đã dành một phần trọng tâm luận giải vấn đề nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả đã nêu và phân tích các nhiệm vụ và giải pháp một cách khá toàn diện: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; Gắn TCCSĐ với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ; Nâng cao chất lượng sinh hoạt của TCCSĐ theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa vào quần chúng nhân dân để xây dựng Đảng.

Ngô Minh Tuấn (2012), “Bàn thêm về kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng” [198]. Tại Đại hội lần thứ X của Đảng đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng khi đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, đến Đại hội lần thứ XI của Đảng đã quyết định thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Tác giả đã khảo sát, phân tích cụ thể dẫn chứng cả về lý luận và thực tiễn trong vấn đề kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng và chỉ dừng lại ở góc độ bàn thêm, không đưa ra giải pháp, kinh nghiệm; trong đó đi sâu vào các nội dung cần bàn thêm đó là: Vấn đề đặt ra đầu tiên là nên xác định đúng đối tượng kết nạp là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng; tiếp theo là điều kiện và tiêu chuẩn kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng [198, tr.49 - 50,55].

Nguyễn Khắc Dịu (2013), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các doanh nghiệp nhà nước” [54], nêu thực trạng, hạn chế, nguyên nhân và đưa ra 7 giải pháp: 1- Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp nhà nước hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; 2-

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.


Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước; 3- Đổi mới cách ra nghị quyết; 4- Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng đối với các doanh nghiệp nhà nước; 5- Cải tiến thủ tục hành chính trong Đảng; 6- Đổi mới công tác cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước; 7- Kiện toàn mô hình tổ chức đảng, cấp ủy Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong giai đoạn mới [54, tr.19 - 20,23].

Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế từ năm 2010 đến năm 2020 - 3

Nguyễn Thái Sơn (2017), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng trong các công ty cổ phần có vốn nhà nước: Thực tiễn và những yêu cầu đặt ra” [127]. Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả đã làm rõ chức năng, nhiệm vụ, sự cần thiết, đưa ra các giải pháp về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp cổ phần. Từ thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo đối với các doanh nghiệp cổ phần, tác giả nêu những vấn đề chính cần tập trung đổi mới và khẳng định: đổi mới phong cách, thể hiện tư duy khoa học tránh thủ tục hành chính rườm rà gây khó khăn cho doanh nghiệp; nhất là cần phải đổi mới cách ra nghị quyết và việc tổ chức quán triệt, thực hiện nghị quyết. Lựa chọn một số nội dung cần thiết xuất phát từ yêu cầu lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ và chủ trương của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc trong từng thời điểm và phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng loại hình TCCSĐ làm chủ đề của từng nghị quyết [127, tr.92 - 98].

Thanh Xuân (2019), “Xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân” [204]. Tác giả nêu những chuyển biến tích cực mạnh mẽ trong nhận thức về xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân, có dẫn chứng cụ thể về phát triển, kiện toàn tổ chức đảng, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và phát triển đảng viên, nhưng cũng có những hạn chế nhất định; với sáu giải pháp quan trọng mà tác giả đã nêu ra, cần tập trung giải pháp: các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức đúng đắn, thống nhất, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN [204, tr.19 - 21, 31].


Quỳnh Mai (2021), “Nhìn lại 7 năm thực hiện thí điểm kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng” [99], sau hơn 7 năm (2013 - 2021), quán triệt và thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị về chủ trương kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng của Trung ương, đặc biệt Hướng dẫn số 17- HD/BTCTW, ngày 30-01-2013 của Ban Tổ chức Trung ương về thí điểm kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng, công tác phát triển đảng viên ở doanh nghiệp tư nhân có nhiều thuận lợi và đạt được kết quả tốt. “Sau hơn 7 năm thực hiện Hướng dẫn số 17, các cấp ủy trực thuộc Trung ương đã kết nạp được 877 đảng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng (trên tổng số 1.030 TCCSĐ trong doanh nghiệp tư nhân)” [99, tr. 43]. Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận sau hơn 7 năm thực hiện Hướng dẫn số 17, tác giả nêu hạn chế và 5 nguyên nhân của hạn chế, đồng thời rút ra 8 bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo.

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp của các bộ, ngành, địa phương

Nguyễn Minh Tuấn (2003), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [199]. Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, từ thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và những vấn đề đặt ra hiện nay. Luận án đã khẳng định, cụ thể hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ, làm sáng tỏ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ trong doanh nghiệp nhà nước ở khu vực kinh tế trọng điểm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, rút ra những kinh nghiệm chung về công tác xây dựng Đảng trong doanh nghiệp nhà nước. Luận án đề xuất một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu cụ thể có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay: 1- Xây dựng và thực hiện tốt các nghị quyết của cấp ủy Đảng, trọng tâm là nhiệm vụ sản xuất, kinh


doanh; 2- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng; 3- Hoàn thiện quy chế hoạt động của cấp ủy Đảng; 4- Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chất lượng sinh hoạt đảng; tăng cường công tác kiểm tra; thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng; 5- Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt vững mạnh; 6- Lãnh đạo các đoàn thể quần chúng, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh; 7- Coi trọng tổng kết thực tiễn, tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng cấp trên.

Hà Duy Dĩnh (2009), Chất lượng tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam giai đoạn hiện nay [53]. Tác giả luận án đã đi sâu làm rõ quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng TCCSĐ ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh; đánh giá thực trạng, kinh nghiệm và những vấn đề đang đặt ra; xác định rõ mục tiêu, quan niệm và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng TCCSĐ ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Tác giả khẳng định, chất lượng lãnh đạo của TCCSĐ được quyết định bởi các yếu tố như việc ban hành các quyết định, nghị quyết chỉ thị để lãnh đạo; chất lượng lãnh đạo chính quyền và đoàn thể quần chúng; chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; công tác kiểm tra, giám sát. Đồng thời rút ra 5 giải pháp cơ bản: Một là, lãnh đạo kiện toàn tổ chức đơn vị sản xuất, kinh doanh và TCCSĐ phù hợp với mô hình mới. Hai là, nắm vững và thực hiện tốt vai trò hạt nhân chính trị của TCCSĐ trong lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Ba là, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng. Bốn là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc Quy chế hoạt động, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, đặc biệt quan tâm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa bí thư và giám đốc. Năm là, tiếp tục kiện toàn đảng ủy, chi ủy, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.

Trần Xuân Thiện (2010), “Xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Vĩnh Long” [128]. Nghiên cứu


công trình này, tác giả đã khái quát đặc điểm chi phối, thực trạng, tình hình xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên ở Vĩnh Long; từ đó tác giả nêu lên 5 giải pháp, kiến nghị: 1- Công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên cần phải được Đảng ủy Khối doanh nghiệp phối hợp với các ngành chức năng, các địa phương thực hiện ngay từ khi doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; 2- Tăng cường công tác tuyên truyền, phân tích, thuyết phục, vận động để nâng cao nhận thức về Đảng cho các chủ doanh nghiệp, người lao động; 3- Khi xét các tiêu chí và bình xét thi đua khen thưởng, cơ quan chức năng cần bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt; 4- Trung ương nên nghiên cứu bổ sung vào Luật doanh nghiệp tư nhân và có chính sách cụ thể đối với doanh nghiệp khi có tổ chức đảng; 5- Trung ương nghiên cứu và có điều chỉnh hợp lý về chế độ phụ cấp trách nhiệm chức danh đối với cán bộ diện ban thường vụ, bí thư, phó bí thư đảng ủy cho phù hợp [128, tr.29 - 30,45].

Nguyễn Thanh Bình (2011), “Tổ chức đảng trong các doanh nghiệp cổ phần ở Quảng Ninh” [43]. Tác giả đã trình bày khái quát về tình hình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tổ chức đảng trong doanh nghiệp cổ phần ở Quảng Ninh và khẳng định: Đa số tổ chức đảng tại các doanh nghiệp cổ phần hóa làm tốt công tác lãnh đạo, chủ động tham gia xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cũng còn một số hạn chế bất cập như số tổ chức đảng đạt TSVM còn ít, một số tổ chức đảng trên thực tế không giữ được vai trò lãnh đạo, không tham gia giải quyết được những vấn đề nảy sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp. Từ thực trạng đó, tác giả đề xuất một số giải pháp xây dựng tổ chức đảng ở các doanh nghiệp cổ phần hóa: Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra của các cấp ủy Đảng cấp trên, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp của TCCSĐ; Hai là, nâng cao nhận thức cho các cấp ủy Đảng và đảng viên về vị trí, vai trò của TCCSĐ trong doanh nghiệp cổ phần; Ba là, đổi mới phương thức


hoạt động; Bốn là, xây dựng cơ chế chính sách thuận lợi tạo điều kiện để củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đảng trong doanh nghiệp [43, tr.30 - 32].

Trương Thị Mỹ Trang (2012), Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa ở các tỉnh Trung Trung bộ giai đoạn hiện nay [196], đã nêu những vấn đề về lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng - nguyên nhân và kinh nghiệm, dự báo những nhân tố tác động, đồng thời đưa ra phương hướng xây dựng, củng cố TCCSĐ trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa ở các tỉnh Trung Trung bộ đến năm 2020. Trên cơ sở đó, tác giả đã rút ra 5 giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng, củng cố TCCSĐ trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa ở các tỉnh Trung Trung bộ. Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về xây dựng, củng cố TCCSĐ trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Hai là, tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cấp ủy và đội ngũ đảng viên; bồi dưỡng và tuyển chọn giới thiệu cấp ủy viên tham gia hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát doanh nghiệp. Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng của TCCSĐ trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Bốn là, xây dựng tốt mối quan hệ giữa cấp ủy tổ chức đảng với hội đồng quản trị, ban giám đốc; vận động cổ đông, người lao động tham gia xây dựng Đảng. Năm là, làm tốt việc xây dựng, đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giúp đỡ của cấp trên đối với các TCCSĐ trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa.

Hồng Văn (2012), “Kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân từ thực tiễn Thái Bình” [201]. Từ thực tiễn tình hình giải quyết vấn đề kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân ở tỉnh Thái Bình, tác giả đã khảo cứu thể hiện sự đầu tư nghiên cứu thông qua việc phân tích, lập luận có căn cứ, có số liệu cụ thể, chỉ rõ cả thành công và hạn chế của địa phương mình đối


với công tác kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân; đưa ra đề xuất cần tập trung làm tốt trong thời gian tới: cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người lao động và giám đốc doanh nghiệp tư nhân về vai trò, vị trí của tổ chức đảng trong doanh nghiệp [201, tr.26 - 27,30].

Trang Long (2013), “Sắp xếp tổ chức đảng trong doanh nghiệp ở Thái Nguyên” [96], đã chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá trình sắp xếp tổ chức đảng: Vẫn còn nhiều tổ chức đảng, đoàn thể chưa được sắp xếp lại hợp lý theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 (khóa

IX) dẫn đến trong lãnh đạo, chỉ đạo ở các doanh nghiệp có sự chồng chéo, thiếu tập trung và hiệu quả thấp…Tác giả đã đưa ra hướng giải quyết thiết thực nhằm sắp xếp hệ thống tổ chức đảng trong doanh nghiệp, trong đó nhấn mạnh: Mô hình tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của TCCSĐ trong các loại hình doanh nghiệp bao gồm đảng ủy cấp trên trực tiếp của TCCSĐ trực thuộc Tỉnh ủy, thị ủy; đảng ủy xã, phường, thị trấn [96, tr. 25-26].

Nhị Hà (2014), “Hải Phòng phát triển tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước” [82]. Tác giả đã phân tích khá sâu về thực tiễn, những kết quả đạt được và hạn chế trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển TCCSĐ trong doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Hải Phòng. Trong năm kinh nghiệm mà tác giả đã rút ra, cần tập trung chú trọng vào kinh nghiệm: phải làm tốt việc quán triệt, tạo sự thống nhất cao về nhận thức trong các cấp ủy Đảng và cán bộ, đảng viên. Tăng cường tuyên truyền, thuyết phục chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài hiểu đúng về vai trò, vị trí và hoạt động của tổ chức đảng [82, tr.22 - 24].

Nguyễn Hữu Khuyến (2014), “Kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng ở Đà Lạt” [93], đã khẳng định kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng là một trong những bước đột phá nhằm xây dựng, củng cố TCCSĐ ở doanh nghiệp vững mạnh toàn diện. Tác giả Nguyễn Hữu Khuyến đã chỉ rõ việc quán triệt, và thực hiện Hướng dẫn số 17-

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/10/2022