Thực Trạng Phát Triển Làng Nghề Thủ Công Ở Hà Nam Trước Năm

đã và đang xâm nhập vào thị trường quốc tế như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Campuchia…

Điều kiện kinh tế ­ xã hội

Với đặc trưng về điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa hình, người dân Hà Nam đã sớm chọn nông nghiệp là nghề sản xuất chính. Bên cạnh đó, với vị trí nằm ở phía Nam của Đồng bằng sông Hồng, trên các tuyến đường giao thông xuyên Việt quan trọng thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, trao đổi

hàng hóa. Những năm gần đây nền kinh tế địa phương bước đầu có sự

chuyển đổi, các ngành nghề phụ, dịch vụ, thương mại, tài chính ngân hàng có sự phát triển mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong năm đạt trên 13%, thu nhập bình quân đạt 42,33 triệu đồng/người/năm (2015).

Hiện nay, trong cơ

cấu kinh tế

của tỉnh có sự

chuyển dịch tích cực

theo hướng tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp, thương mại ­ dịch vụ, giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng có

sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản từ

44,4% (năm 2010) lên 49,1% (năm 2015).

Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Hà Nam phân theo ngành

ĐVT: %


Ngành Năm

2000

2003

2005

2008

2010

Nông ­ Lâm ­ Ngư nghiệp

39.3

33.7

28.6

28.3

21.2

Công nghiệp ­ Xây dựng

28.8

34.5

39.7

43.6

48.2

Dịch vụ

31.9

31.8

31.7

28.1

30.6

Tổng

100

100

100

100

100

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014 - 4

Ngun: Xử lý từ [12]

Tại các khu trung tâm huyện, thành phố ngày càng xuất hiện nhiều các dịch vụ ăn uống, các cửa hàng nhu yếu phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày của nhân dân… Hoạt động kinh doanh dịch vụ ở Hà Nam những năm gần

đây phát triển mạnh, thị trường buôn bán sôi động, dịch vụ lao động sản xuất, xây dựng và các dịch vụ khác phát triển tốt.

Với dân số là 785.057 người (năm 2012), trong đó số người trong độ tuổi lao động là 493.095 người, chiếm 62,8% tổng dân số của tỉnh. Cơ cấu sử dụng lao động có xu hướng hướng giảm tỉ lệ lao động trong khu vực nông ­ lâm ­ thủy sản, tăng tỉ lệ lao động trong khu vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Lực lượng lao động dồi dào, với

đức tính cần cù chịu khó, ham học hỏi, có khả năng tiếp thu và áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất là động lực và nhân tố chính trong việc thực hiện các chương trình, mục tiêu về kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương. Đặc biệt, nguồn lao động Hà Nam có truyền thống và kinh nghiệm trong sản xuất một số ngành nghề TTCN như thêu ren, khai thác và chế biến đá, mây tre đan… Đó là cơ sở để đẩy mạnh phát triển hơn nữa

các làng nghề hiện có trong tỉnh. Tuy lực lượng lao động dồi dào nhưng

phân bố không đồng đều giữa các huyện, thành phố trong tỉnh và giữa các ngành kinh tế. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động còn thấp; tỉ lệ lao động thất nghiệp còn khá cao. Do đó, vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân trở thành vấn đề gay gắt được Đảng bộ tỉnh Hà Nam quan tâm.

Kinh tế phát triển là điều kiện thuận lợi để hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và nâng cao các mặt giáo dục, văn hóa, y tế.

Hệ thống giao thông của tỉnh thuận lợi cho phát triển kinh tế địa

phương cũng như giao lưu với địa phương khác. Hà Nam hiện có khoảng 14.500km đường bộ, trong đó có những tuyến đường giao thông huyết

mạch quan trọng như: quốc lộ 1A, đường cao tốc Cầu Giẽ ­ Ninh Bình,

quốc lộ 21A đi Chi Nê (Hòa Bình) với tổng chiều dài 73km, quốc lộ 21B

dọc theo sông Đáy đi chùa Hương, quốc lộ 38 chạy từ Chợ Dầu (huyện

Kim Bảng) ra Đồng Văn, qua Hòa Lạc, cầu Yên Lệnh đi Hưng Yên… Bên cạnh đó, Hà Nam còn có khoảng 34km đường sắt thuộc tuyến Bắc ­ Nam với ba ga chính đặt ở thành phố Phủ Lý, thị trấn Đồng Văn (Duy Tiên) và

Bình Mỹ

(Bình Lục) và 10km đường chuyên dụng. Hệ

thống giao thông

đường sông có khoảng 300km với các con sông lớn như: sông Hồng, sông

Đáy, sông Nhuệ… góp phần quan trọng trong việc vận tải, cung ứng vật

tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và vận chuyển sản phẩm tới thị

trường. Có thể

nói, hệ

thống giao thông của Hà Nam khá phát triển tạo

thành mạng lưới khép kín. Nhờ đó, các phương tiện giao thông có thể đi lại

thuận tiện, dễ dàng đến hầu hết các xã, thôn trong tỉnh; đồng thời đẩy

mạnh giao thương liên vùng trên nhiều phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa ­ xã hội.

Cơ sở hạ tầng bưu chính viễn thông và thông tin liên lạc phát triển

nhanh và đang từng bước hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu của đời sống và yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ CNH ­

HĐH. Mạng lưới truyền tải và phân phối điện được xây dựng, mở rộng

đến hầu hết các thôn, xã, về cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Công tác giáo dục được Đảng bộ, chính quyền và các ban ngành, đoàn thể đặc biệt quan tâm. Hệ thống cơ sở vật chất trường học, các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập dần đáp ứng được nhu cầu của thầy và trò. Nhiều lớp học được sửa chữa, xây mới khang trang, sạch đẹp, đảm bảo cho việc dạy và học ở địa phương. Việc giáo dục phổ cập trung học cơ sở đã hoàn thành.

Mạng lưới y tế cơ sở ngày càng hoàn thiện, chất lượng khám và điều trị nâng lên một bước. Nhiều dịch bệnh được kiểm soát, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân bước đầu được quan tâm, chú trọng. Duy trì tốt công tác khám sức khỏe định kỳ, tiêm chủng cho trẻ em, cũng như quan tâm giúp đỡ con em các gia đình có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học giỏi.

Những điều kiện tự

nhiên và kinh tế

­ xã hội trên là tiền đề để Hà

Nam phát triển đa dạng các loại hình kinh tế như: nông nghiệp, công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… Đặc biệt, với sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải, nguồn lao động dồi dào, cơ sở vật chất hạ tầng ngày càng khang trang, tỉnh Hà Nam đã thu hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư; đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm kinh tế nói chung và thị trường tiêu thụ các sản phẩm làng nghề nói riêng. Từ đó, hình thành không gian kinh tế mở với những lợi thế về giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học ­ kỹ thuật; tạo điều kiện cho Hà Nam khai thác có hiệu quả nguồn lực bên trong và tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho công cuộc CNH ­ HĐH đang được đẩy mạnh.

1.2.2. Thực trạng phát triển làng nghề thủ công ở Hà Nam trước năm

1997


Hà Nam có nhiều làng nghề


nổi tiếng được hình thành từ


rất sớm,

trong đó có những nghề xuất hiện cách đây hàng nghìn, hàng trăm năm như:

nghề làm trống làng Đọi Tam (xã Đọi Sơn ­ huyện Duy Tiên) được hình

thành từ

đầu thế kỷ

X, làng dệt lụa Nha Xá (xã Mộc Nam ­ huyện Duy

Tiên) xuất hiện từ thế kỷ XIII, hay làng gốm Quyết Thành có cách đây 400

năm; làng thêu ren Thanh Hà cũng có cách đây hơn một thế kỷ (1893)…

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, các làng nghề

thủ

công có nhiều

biến động, lúc hưng thịnh, lúc suy thoái, thậm chí có những làng nghề bị mai một.

Dưới thời phong kiến, các làng nghề thủ công ở Hà Nam đã xuất hiện nhưng chưa phát triển mạnh, người thợ thủ công đồng thời cũng là người nông dân, họ vẫn thực hiện công việc chính yếu của nhà nông và vẫn chịu sưu dịch như nông dân làng xã.

Thời Pháp thuộc, mặc dù thực dân Pháp thi hành một loạt các chính

sách kìm hãm sự

phát triển kinh tế

thuộc địa nhưng các ngành nghề

thủ

công ở Hà Nam vẫn phát triển, có xu hướng mở rộng. Bên cạnh đó, một số ngành nghề mới xuất hiện như: thêu ren, khai thác đá... Bởi vậy, số người hoạt động trong các ngành nghề phi nông nghiệp ngày càng tăng. Cho đến những năm 1930, tỷ lệ người làm nghề thủ công trong dân cư của một số tổng ở huyện Duy Tiên như sau: tổng Hoàng Đạo có 13% dân số làm nghề hàng xáo, dệt vải, đăng ten; tổng Tiên Xá có 16% dân số làm nghề thợ may, thợ mộc; tổng Trác Bút có 11% dân số làm các nghề thợ mộc, thợ nề; tổng

Mộc Hoà có 27% dân số

làm nghề

dệt vải, hàng xáo, làm đậu phụ. Các

tổng ở huyện Lý Nhân cũng gần giống như vậy: tổng Công Xá có 15% dân số làm các nghề thợ mộc, dệt vải, đan lát; tổng Vũ Điện có 13% dân số làm các nghề dệt vải, hàng xáo, may mặc; tổng Ngu Nhuế có 25% dân số làm các nghề thợ mộc, đan lát, làm bánh; tổng Cao Đà có 40% dân số làm thợ mộc [51]. Tuy nhiên, đến những năm 1946 ­ 1954, các làng nghề thủ công cũng như các cơ sở sản xuất TTCN bị đình đốn do chiến tranh phá hoại. Đặc biệt, trong những năm 1952 ­ 1953, các ngành nghề TTCN của tỉnh bị giảm sút ghê gớm: trên 1.000 khung dệt vải, hàng chục lò gốm, lò rèn, đúc gang, cơ khí, làm gạch ngói… ngừng sản xuất.

Hoà bình lập lại ở miền Bắc cho đến trước ngày đất nước thống nhất (1954 ­ 1975), đây là thời kỳ đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, có điều

kiện hòa bình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn ở miền Nam, tạm thời nằm dưới quyền kiểm soát của đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai. Để tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo kháng chiến, năm 1956, hai tỉnh Hà Nam và

Nam Định sát nhập lại thành tỉnh Nam Hà. Thực hiện nhiệm vụ mà Bộ

Chính trị đề ra (tháng 9/1954) là: Hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi và phát triển kinh tế một cách có kế hoạch, từng bước mở rộng giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn... các ngành nghề tiểu thủ công của tỉnh

dần được phục hồi và bước vào thời kỳ phát triển mới cùng với sự phát

triển chung của nền kinh tế tỉnh Nam Hà. Tính đến cuối năm 1954, trên địa bàn tỉnh có 16.000 khung dệt vải khổ hẹp và 80 khung dệt khổ rộng hoạt động, sản xuất được 196.616m2 vải bán ra thị trường. Nghề gốm sản xuất được hơn 82.980 sản phẩm các loại. Các cơ sở sản xuất nông cụ cũng sản xuất được trên 40.000 lưỡi cày, diệp cày và nhiều công cụ khác phục vụ cho sản xuất… Tuy nhiên, số người tham gia hoạt động thủ công nghiệp vẫn còn hạn chế. Năm 1957, cả tỉnh có trên 13,9 nghìn người làm các ngành nghề thủ công nghiệp (chiếm gần 3% dân số của tỉnh lúc bấy giờ), trong

đó có khoảng 9.000 người làm các ngành nghề hình thức cá thể, hộ gia đình.

chuyên nghiệp dưới các

Kết thúc giai đoạn khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, Trung ương Đảng chủ trương tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây

dựng

quan hệ

sản xuất mới

XHCN. Tại Hội nghị

lần thứ

14 Ban Chấp

hành Trung

ương Đảng khoá II (tháng 11/1958) đã chỉ

ra nhiệm vụ

với

miền Bắc lúc này là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện về kinh tế và xã hội đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu thủ và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh. Quán triệt chủ trương của Đảng, Đảng bộ

tỉnh Nam Hà đã tập trung lãnh đạo nhân dân tiến hành hành cuộc cách mạng

quan hệ

sản xuất, cải tạo xã hội chủ

nghĩa đối với nông dân cá thể

nói

chung, và đối với các hộ

sản xuất thủ

công, tiểu thương nói riêng. Cuối

năm 1958, phong trào hợp tác hoá được đẩy mạnh và nhanh chóng trở thành cao trào. Trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện những HTX TTCN đầu tiên, bước sang năm 1959, số thợ thủ công tham gia HTX ngày càng nhiều. Đến giữa năm 1960, phần lớn các HTX TTCN được chuyển lên bậc cao, nhiều HTX

có quy mô từ 300 ­ 500 xã viên. Có những HTX có quy mô lên đến hàng

nghìn hộ, tiêu biểu như HTX dệt Hoàng Tân (xã Hoà Hậu ­ huyện Lý

Nhân) có 1.200 hộ, sử dụng 2.000 lao động, đảm bảo đời sống cho 4.000 nhân khẩu và đạt sản lượng tới 20 triệu mét vải. Tính đến năm 1961, toàn tỉnh có 91,5% thợ thủ công tham gia HTX TTCN, trong đó có 22,4% tham gia HTX bậc cao; quy mô HTX được mở rộng, 53% số HTX có từ 30 ­ 100 xã viên, 7% số HTX có quy mô từ 100 ­ 300 xã viên. Có thể nói, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của các làng nghề thủ công Hà Nam, nhiều sản phẩm được xuất sang nước ngoài như năm 1955, HTX mây tre Ngọc Động được thành lập và ký được hợp đồng xuất khẩu sang các nước Đông Âu thông qua công ty xuất nhập khẩu. Hay nghề dũa ở Đại Phu (xã An Đổ ­ huyện Bình Lục) trong những năm 1960 ­ 1964, đã tạo được niềm tin đối với khách gần, xa, mỗi năm làm ra hàng triệu sản phẩm, xuất sang thị trường

các nước Đông Âu, Lào, Campuchia… Sau hợp tác hoá, thủ công nghiệp

dần dần kết hợp với công nghiệp quốc doanh địa phương, phát huy tác dụng hỗ trợ cho công nghiệp quốc doanh Trung ương phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân và xuất khẩu. Như vậy, thời kỳ này, phương thức sản xuất tập thể thống trị, các làng nghề thủ công với tư cách là đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành các HTX TTCN hay các tổ hợp nghề hoặc các đội

ngành nghề trong HTX Nông nghiệp, những người thợ thủ công trở thành xã viên của HTX, họ hoạt động sản xuất theo kế hoạch được giao và xã viên được Nhà nước bán gạo, thực phẩm và một số mặt hàng tiêu dùng theo tiêu chuẩn tem phiếu.

Trong những năm chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hơn 30% cơ sở, xí nghiệp công nghiệp của tỉnh bị địch bắn phá; việc cung ứng nguyên vật liệu khó khăn, song sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn phát triển khá mạnh nhằm cung cấp tư liệu sản xuất phục vụ cho các ngành công nghiệp kháng chiến và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Năm 1975, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước

cùng tiến lên xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa. Đến năm

1976, tỉnh Nam Hà sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.

Đây là nguồn cổ

vũ lớn lao để

Đảng bộ

và nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh

đoàn kết, bắt tay vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 ­ 1980).

Từ năm 1981 đến năm 1985, là thời kỳ đất nước lâm vào cuộc khủng

hoảng kinh tế ­ xã hội, các làng nghề

tiểu thủ

công nghiệp của Hà Nam

Ninh nói riêng cũng như

trên cả

nước nói chung gặp nhiều khó khăn do

trình độ quản lý trong các HTX TTCN yếu kém, dẫn đến các yếu tố tiêu

cực xuất hiện ngày càng nhiều. Trong khi đó, cơ

chế

tập trung quan liêu

bao cấp duy trì quá lâu đã hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Thêm vào đó, nguồn nguyên vật liệu thiếu thốn làm cho sản xuất bị giảm sút, nhiều làng nghề bị mai một, suy tàn…

Nhằm khắc phục những sai lầm và tháo gỡ khó khăn trong quản lý

kinh tế ­ xã hội, năm 1986, Đảng khởi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mọi hoạt động kinh tế sang hạch toán xã hội chủ nghĩa. Theo đó, các hợp tác xã TTCN lần lượt

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/05/2022