Đảm Bảo Nguyên Tắc Phù Hợp Với Cơ Cấu Quản Trị Hiện Đại Của Doanh Nghiệp

chịu trách nhiệm cá nhân là điều tất yếu. Hành vi phạm tội được pháp luật quy định gắn liền với những hoạt động kinh doanh thông thường như: các tội buôn lậu, tội trốn thuế, tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản, tội gây ô nhiễm môi trường, tội tài trợ khủng bố, tội rửa tiền… Bên cạnh đó, trách nhiệm của pháp nhân cũng không được loại trừ trong trường hợp này. Hay nói cách khác, việc quy định về pháp nhân doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm hình sự, bên cạnh nhiệm hình sự của cá nhân người đại diện bản chất là bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm về cùng một hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện.Tất nhiên, trách nhiệm hình sự của hai chủ thể này chỉ phát sinh và gắn bó cùng lúc với nhau khi hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ lý thuyết tổ chức, hành động của cơ quan đóng vai trò quản lý, chỉ đạo pháp nhân được xem là hành động của pháp nhân là lý thuyết giải thích cho việc áp dụng trách nhiệm này.

2.6.2. Đảm bảo nguyên tắc phù hợp với cơ cấu quản trị hiện đại của doanh nghiệp

Hoạt động của người ĐDTPL không tách rời mà luôn gắn liền với quản trị doanh nghiệp. Do đó, các chỉ dẫn có tính nguyên tắc trong việc xây dựng các thông lệ quản trị công ty tốt bao giờ cũng có tiêu chí kiểm soát hoạt động của những người quản lý, những người đại diện. Khuôn khổ của Bộ nguyên tắc về quản trị công ty của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OCED) được xây dựng trên 4 nguyên tắc cốt lòi: tính công bằng, tính trách nhiệm, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình [27;tr15]. Trong doanh nghiệp, lợi ích hợp pháp của các cổ đông, thành viên công ty cần được bảo vệ song song với việc kiểm soát xung đột lợi ích của những người nắm quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp với lợi ích doanh nghiệp, lợi ích của người lao động, chủ nợ, đối tác cũng như cộng đồng người tiêu dùng... Để đảm bảo được điều đó, những người nắm giữ quyền lực của doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ pháp luật và quyền hạn được giao. Từ mối quan hệ chặt chẽ đó, xu thế quản trị của doanh nghiệp theo hướng hiện đại hơn cũng sẽ có tác động trở lại tới hoạt động của người đại diện

của doanh nghiệp. Có một số nội dung gắn liền với xác định quản trị doanh nghiệp hiệu quả cần đảm bảo, cụ thể là:

Mô hình đại diện gắn kết với quản trị doanh nghiệp phải hài hòa, hướng tới mục đích chung là bảo vệ lợi ích chung của doanh nghiệp chứ không phải bảo vệ lợi ích cổ đông hoặc lợi ích nhóm của những người quản lý do tình trạng bất cân xứng thông tin. Những người đại diện có khả năng tiếp cận nhiều thông tin có giá trị và đem lại lợi ích cá nhân hơn so với những cổ đông thiểu số, những nhân viên hay chủ nợ của doanh nghiệp.. Người đại diện của doanh nghiệp không được lạm dụng thông tin của công ty hoặc cơ hội kinh doanh của công ty để kiếm lợi nhuận cho bản thân và người thân của mình. Nhóm nghĩa vụ này bao gồm việc (i) người đại diện tránh tham gia vào giao dịch có khả năng xung đột với lợi ích công ty, không cho phép người đại diện công ty nhận các lợi ích từ các bên thứ ba (ví dụ như khoản tiền hoa hồng, hối lộ làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp) hay bắt buộc công khai các lợi ích liên quan khi xác lập giao dịch. Khi người đại diện tham gia các cuộc đàm phán kinh doanh với đối tác, nhận thấy lợi nhuận có được từ giao dịch nên đã hợp tác với đối tác triển khai riêng với tư cách cá nhân cũng được xem là hành vi vi phạm nghĩa vụ dù hành vi đó gây ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, chứ chưa ảnh hưởng đến số tiền thực tế mà công ty chịu lỗ. Chỉ khi nào công ty đã xem xét và từ chối giao dịch đó thì việc người đại diện chấp thuận với tư cách là dự án kinh doanh riêng của mình hoặc công ty không có khả năng thực tế hiện thực hóa cơ hội kinh doanh đó thì người đại diện mới không bị truy cứu trách nhiệm. Quan điểm giải quyết đó đã được chứng minh trong án lệ của Anh, Mỹ (Phụ lục 1, 2). Chính vì lẽ đó, nên hiện thực hóa quy định cấm người đại diện sử dụng quyền năng đại diện của mình để tham gia vào những thỏa thuận gây ra nguy cơ lớn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc cấm cạnh tranh cần được giới hạn về thời gian và không gian, cần phải tỷ lệ thuận với phạm vi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi vi phạm nghĩa vụ này, người ĐDTPL phải bồi thường thiệt hại. Để phát sinh trách nhiệm, phải đáp ứng các điều kiện như thiệt hại xảy ra, hành vi vi phạm, lỗi và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra.

Xem xét bốn điều kiện này sẽ được thẩm phán giải quyết tùy theo các trường hợp cụ thể

Cơ chế giám sát người ĐDTPL thực hiện nghĩa vụ là yếu tố được quan tâm trong nội dung quản trị doanh nghiệp. Các nghĩa vụ hành động cẩn trọng vì lơi ích tốt nhất của công ty được đặt ra cho cả người ĐDTPL và người quản lý doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở việc người đại diện phải tham dự các cuộc họp, tiếp nhận thông tin đầy đủ để có phương án xử lý các nhiệm vụ có liên quan đến công ty bởi suy cho cùng, họ là người đầu tiên chịu trách nhiệm trước pháp luật về doanh nghiệp. Trong trường hợp nghi ngờ tài liệu không trung thực, khách quan, người đại diện phải có quyền tra cứu thông tin và được quyền xem xét tài liệu tài chính và giám sát công ty.

Quản trị doanh nghiệp cần sự giám sát chuyên nghiệp đội ngũ người đại diện, nhà quản lí. Quy mô và loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến đời sống của từng cá nhân trong xã hội nên việc thiết lập kênh giám sát này càng quan trọng. Trong bối cảnh quản trị doanh nghiệp có sự phân tách giữa quyền sở hữu của các thành viên công ty và quyền quản lý doanh nghiệp, mâu thuẫn xung đột về lợi ích là không thể tránh khỏi. Người đại diện muốn thực hiện các mục tiêu ngắn hạn, củng cố địa vị và an toàn cho bản thân trong quản lý doanh nghiệp trong khi những người góp vốn muốn tối đa lợi nhuận thu được Nhà nước chủ trương các công ty phát triển bền vững, có trách nhiệm với xã hội, với bên thứ ba có liên quan. Các xung đột cơ bản được phân chia thành các trường hợp như: người đại diện không cố gắng thực hiện nghĩa vụ của mình; thực hiện các hành vi gây cản trở cho công ty và các thành viên/cổ đông trong hoạt động kinh doanh cũng như việc thay đổi người đại diện và tự kinh doanh (lợi dụng các đặc quyền hợp pháp để cạnh tranh hoặc thậm chí là hành vi tham ô chiếm đoạt tài sản). Do đó, việc thiết lập cơ chế giám sát là việc cần thiết nhằm đưa vai trò của người ĐDTPL luôn ở vai trò đúng mực, phù hợp với lợi ích các bên. Cơ chế giám sát này được thực hiện bằng nhiều phương thức, bao gồm quy định của pháp luật và thỏa thuận tự điều tiết trong nội bộ công ty hay nói cách khác là phương thức dân sự. Mỗi phương thức có ưu điểm, hạn chế riêng song tổng hợp, khái quát lên thì việc thiết lập cơ chế giám sát hài hòa bằng các nguyên tắc quản trị của doanh nghiệp trong kinh tế học là một yêu cầu

cần thiết. Các nhà làm luật cần xác định phương thức điều chỉnh quan hệ pháp luật dựa trên nguyên tắc bảo vệ đối tượng nào để thiết lập quy định giám sát và phương thức giám sát hiệu quả đối với từng vấn đề. Bởi nếu điều chỉnh bằng pháp luật cứng nhắc sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp nhưng nếu điều chỉnh bằng nguyên tắc dân sự quá nhiều dễ dẫn tới sự tùy nghi và thỏa thuận có lợi cho các thành viên tham gia thỏa thuận đó chứ không phải là người thứ ba có liên quan.

2.6.3. Đảm bảo nguyên tắc bảo vệ người thứ ba trong quan hệ đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Việc thiết lập mô hình đại diện của doanh nghiệp cần đảm bảo nguyên tắc bảo vệ người thứ ba trong quan hệ với doanh nghiệp. Nguyên tắc này được thể hiện trong những vấn đề như: xử lý các giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện, xác định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với bên thứ ba khi có hành vi vi phạm của người đại diện.

Pháp luật quy định hướng xử lý các giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện hay không có quyền đại diện cần xác định rò tiêu chí nhận diện cũng như hậu quả pháp lý kèm theo. Vượt quá thẩm quyền đại diện của người ĐDTPL trong doanh nghiệp là trường hợp người đại diện đã xác lập. thực hiện giao dịch trên cơ sở quyết định vượt quá thẩm quyền theo quy định của Điều lệ công ty hoặc các giới hạn luật định. Khái niệm này được phát biểu trên cơ sở người Đ DTPL đồng thời là người nắm giữ quyền quản lý doanh nghiệp. Bản chất là người đại diện của công ty đã giao kết giao dịch dựa trên phạm vi thẩm quyền người đó có, mặc dù quyền đại diện trong vấn đề đó thuộc thẩm quyền của một chủ thể khác trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi phân tách quyền đại diện và quyền quản lý, khái niệm này chưa thể hiện chính xác bản chất thật sự của vượt quá thẩm quyền. Nếu người ĐDTPL thực hiện giao dịch không thuộc năng lực pháp luật mà doanh nghiệp được thực hiện thì đây không phải là vượt quá thẩm quyền đại diện vì lúc này, người đại diện đang thực hiện hành vi đại diện cho doanh nghiệp vốn có của mình. Xuất phát từ chức năng đại diện cho doanh nghiệp, vì lợi ích của doanh nghiệp nên hành vi đó không phải vượt quá thẩm quyền. Nếu người đại diện thực hiện đúng việc ký kết giao dịch mà vốn bản chất giao dịch đó thuộc thẩm quyền của chủ thế khác thì hành vi sai phạm ở đây không thuộc về hành vi ký kết (quyền đại diện) mà thuộc về hành vi quyết định

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 11

giao dịch (quyền quản lý). Vấn đề này cần phải phân tích rò ràng đề tránh hiểu nhầm trường hợp vượt quá thẩm quyền của người quản lý được hiểu thành vượt quá thẩm quyên của người đại diện.

Nếu phân tách giữa quyền đại diện và quyền quản lý như mô hình của Việt Nam hiện nay thì chỉ có quyền quản lý có thể phân định giới hạn các lĩnh vực hoặc giao dịch được xác lập theo phân cấp quyền lực trong doanh nghiệp. Đối với quyền đại diện, bản chất là nhân danh doanh nghiệp giao dịch với người thứ ba không có giới hạn. Hay nói cách khác, quyền đại diện là thẩm quyền đại diện đầy đủ, khó có thể phân định thâm quyền. Điều này thể hiện ở chi tiết LDN năm 2020 chỉ có quy phạm pháp luật quy định về thẩm quyền của người quản lý trong doanh nghiệp, không có quy định về thâm quyền của người đại diện dù có tách riêng chức danh của hai chủ thể này. Do đó, để hiểu chính xác vượt quá thẩm quyền đại diện ở đây phải là trường hợp người đại diện đã không hành động theo đúng vai trò, vị trí của mình dẫn đến thiệt hại của doanh nghiệp. Vây nên tiêu chí xem xét vượt quá thẩm quyền đại diện được xác định dựa trên so sánh lợi ích đạt được và thiệt hại của doanh nghiệp khi người ĐDTPL không hành động.

Nhìn từ góc độ lí luận, các doanh nghiệp theo mô hình ĐDTPL độc lập được sẽ phải rất vất vả để chứng minh sự vượt quá thẩm quyền đại diện bởi quyền đại diện chỉ đơn thuần là đại diện hợp pháp cho quyết định quản lý của doanh nghiệp được thực hiện ra bên ngoài. Trong khi đó, bản chất thực sự quyền quản lý mới dễ phân định ranh giới vượt quá thẩm quyền bởi sự tách bạch trong lĩnh vực quản lý hoặc cấp quản lý theo thẩm quyền. Với doanh nghiệp chỉ tồn tại một người đại diện duy nhất, độc lập với cách tiếp cận lý thuyết giả tưởng, người đại diện có toàn quyền nhân danh doanh nghiệp thì việc chứng minh càng không thể.

Trường hợp không có thẩm quyền đại diện xảy ra khi người đại diện nhân danh công ty và hành động thay mặt công ty khi chưa có thẩm quyền đại diện. Đó là giao dịch được xác lập khi cá nhân không được bổ nhiệm trở thành người ĐDTPL hoặc là khi người ĐDTPL đã bị bãi nhiệm. Trong trường hợp này cá nhân đó bị tước đoạt quyền lực nên không thể ràng buộc trách nhiệm của công ty với các giao dịch đã xác lập. Bản chất quyền lực ở đây là thiếu quyền

lực đại diện nên những giao dịch đó không thể ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp trừ trường hợp ngoại lệ. Nguyên nhân dẫn tới giao dịch này vô hiệu là bởi khi người đại diện không có thẩm quyền ký hợp đồng – một điều kiện tồn tại đầu tiên của hợp đồng.

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba còn được thể hiện rò trong quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với bên thứ ba. Nhìn từ góc độ lí luận, cần giải thích nguyên nhân tại sao doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với bên thứ ba trong khi người thực hiện giao dịch là người ĐDTPL. Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với hành vi của người ĐDTPL được xác lập dựa trên nguyên tắc của pháp luật: đáp ứng tốt hơn cho việc bảo vệ quyền lợi của người có liên quan bằng cách chọn chủ thể chính thức được thay thế. Theo đó, doanh nghiệp chịu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi mà người ĐDTPL đã cam kết nhân danh doanh nghiệp thực hiện. Nguyên tắc này được tìm thấy trong pháp luật Úc còn gọi là “lý thuyết túi sâu” (“deep pocket”). Theo đó, doanh nghiệp có nguồn lực kinh tế tốt hơn so với người ĐDTPL nên có đủ tiền để trả cho các rủi ro phát sinh khi người gây thiệt hại trong vai trò người của doanh nghiệp [89]. Đối với pháp luật của Mỹ, lý thuyết được vận dụng để giải thích vấn đề này là “trách nhiệm thay thế” (Alternative liability theory), doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về hành vi của người đại diện gây ra khi hành động nhân danh chính nó. Trách nhiệm này chuyển theo nguyên tắc suy đoán là cả doanh nghiệp cũng có lỗi trong việc thực hiện hoạt động quản lý, giám sát người đại diện bởi doanh nghiệp ở trong điều kiện tiếp cận thông tin tốt nhất. Do đó, cơ sở ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp là mối quan hệ nhân quả vẫn thể hiện ở đây [70]. Từ góc độ nghiên cứu về cách tiếp cận lý thuyết tổ chức, nghiên cứu Luật công ty của Anh năm 2016, sửa đổi năm 2018 cho thấy: mỗi công ty là một pháp nhân riêng biệt và phải thực hiện hành vi thông qua cơ quan điều hành của nó. Các hành động, kiến thức và ý định của cá nhân – thuộc một phần của tổ chức được coi như là hành động, kiến thức và ý chí của chính công ty. Do đó, công ty chịu trách nhiệm về các sự kiện trong thế giới thực, về cơ bản, coi các hành động, kiến thức và ý định của cá nhân là của công ty. Cách lập luận đó đã hợp nhất một cách hiệu quả mục đích pháp lý, cá nhân và công ty thành một

thực thể. Do đó, chỉ có một mối quan hệ hai bên: công ty và bên thứ ba và pháp nhân phải chịu trách nhiệm với người thứ ba là đương nhiên. [59].

Nguyên tắc được xác định khi doanh nghiệp bồi thường cho người thứ ba trong hai trường hợp: một là, người ĐDTPL thực hiện theo sự chỉ dẫn có hệ thống của doanh nghiệp. Hai là, trường hợp người ĐDTPL thực hiện công việc của họ nhưng thực hiện sai do yếu tố chủ quan của người đại diện gây thiệt hại trong quá trình thực hiện công việc. Ở đây, nguyên tắc chung xác định người đại diện không phải chịu trách nhiệm với người thứ ba về các giao dịch mà họ đã thay mặt doanh nghiệp và chỉ chịu trách nhiệm với công ty và trước pháp luật về hành vi vi phạm đó theo hướng: người đại diện phải chịu trách nhiệm trực tiếp với bên thứ ba trong các trường hợp: (i) Thông tin của giao dịch không được người ĐDTPL tiết lộ hoặc tiết lộ một phần trong khi nghĩa vụ không được phép che dấu thông tin; (ii) Người ĐDTPL biết rò mình không có thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện. Người đại diện làm cho bên thứ ba tin rằng họ có quyền đại diện đầy đủ thì họ phải chịu trách nhiệm về các hợp đồng được thực hiện; (iii) Người ĐDTPL ký hợp đồng với tư cách cá nhân.

Nguyên tắc bảo vệ người thứ ba được thể hiện từ những yêu cầu đầu tiên như việc công khai danh tính của người đại diện. Điều kiện bắt buộc trước khi bổ nhiệm là phải công khai danh tính, song trong trường hợp không có sự công khai danh tính kịp thời (thường gặp khi thay đổi người ĐDTPL) hoặc có sự sai sót trong thủ tục công khai danh tính người ĐDTPL, hiệu lực của hợp đồng mà người đại diện đã ký vẫn ràng buộc với doanh nghiệp. Bởi người đại diện đã hành động dựa trên chức năng của doanh nghiệp, trong giờ làm việc và phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp thì hành động đó được xem là đại diện cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này là phù hợp vì việc thiếu công khai danh tính bản chất không phải là hành vi vượt quá thẩm quyền đại diện mà là hành vi vi phạm quy định mang tính chất hành chính hoặc trong một số trường hợp là vi phạm các quy định nội bộ đối với việc công bố quyền đại diện.

TIẾU KẾT CHƯƠNG 2

Qua nghiên cứu các khía cạnh lí luận của ĐDTPL của doanh nghiệp có thể nhận thấy:

1. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là hình thức đại diện do pháp luật quy định bởi đặc trưng pháp lý của công ty có tư cách pháp nhân. Từ cách tiếp cận các lý thuyết pháp lý: lý thuyết giả tưởng và lý thuyết hiện thực, lý thuyết tổ chức, lý thuyết đại diện hay lý thuyết hợp đồng lý giải vị trí ĐDTPL của doanh nghiệp khác nhau. Song có điểm chung có thể khẳng định: ĐDTPL là hình thức đại diện không thể thiếu đối với doanh nghiệp.

2. Qua sự phân tích về ĐDTPL của doanh nghiệp đặt trong sự so sánh pháp luật của hai hệ thống pháp luật: các nước Anh, Mỹ và Pháp, Đức, có thể nhận thấy ĐDTPL của doanh nghiệp có những đặc trưng cơ bản: là đại diện cần thiết của doanh nghiệp; tính hợp pháp; luôn bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; lựa chọn người có thẩm quyền đại diện xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp; người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.

3. Mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp giữa các quốc gia có sự khác nhau về sự phân bố quyền đại diện, thẩm quyền đại diện và các nguyên tắc về các hạn chế của quyền đại diện ảnh hưởng tới người thứ ba ngay tình.

4. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là một hình thức đại diện do pháp luật quy định, do đó những nội dung như tiêu chuẩn bổ nhiệm, phạm vi thẩm quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý được quy định trong văn bản pháp luật. Pháp luật về vấn đề này chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như cơ sở lý luận về quan hệ đại diện, điều kiện kinh tế xã hội cũng như các tiêu chuẩn của quản trị doanh nghiệp hiện đại do đó, các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ pháp luật đại diện của doanh nghiệp phải được đảm bảo trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/07/2022