Điều kiện đối với người ĐDTPL được quy định phân tán trong các văn bản luật như BLDS, LPS, một số luật chuyên ngành như Luật Tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm... Điều kiện này được hiểu là những yêu cầu được pháp luật quy định đối với cá nhân được bổ nhiệm là người ĐDTPL của doanh nghiệp. Quy định này là cần thiết bởi vai trò quan trọng của người đại diện. Pháp luật không kiểm soát đối với người đại diện thì sự lỏng lẻo trong việc ràng buộc trách nhiệm chủ thể đại diện có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Các điều kiện đó bao gồm:
(i) người ĐDPL phải là người có đủ năng lực hành vi dân sự. (Khoản 3 Điều 134 BLDS năm 2015).
(ii) không thuộc trường hợp bị hạn chế quyền quản lý theo quy định của pháp luật nếu người đại diện đồng thời là người quản lý. Theo Điều 94 LPS năm 2014, những người quản lý doanh nghiệp không được thành lập doanh nghiệp hoặc không được đảm nhận các vị trí quản lý doanh nghiệp trong vòng 3 năm kể từ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản trừ trường hợp bị phá sản vì lý do bất khả kháng. Bao gồm: “(i) Chủ DNTN; thành viên hợp danh của CTHD; Giám đốc/Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên HĐQT, HĐTV của doanh nghiệp; Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị hợp tác xã bị tuyên bố phá sản;
(ii) Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên HĐQT của công ty/Tổng công ty 100% vốn nhà nước không được cử đảm nhận các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào; (iii) Người được giao đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước”.
Phân tích về các trường hợp trên ta thấy rò, hạn chế này được chỉ đích danh là hạn chế về thành lập doanh nghiệp đồng thời hạn chế về việc nắm quyền quản lý. Đối với quyền đại diện, LDN hiện nay không có quy định rò ràng về việc không được nắm giữ quyền đại diện. Trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện, nếu có người này chỉ nắm giữ vai trò ĐDTPL bằng một chức danh không thuộc các chức danh quản lý được quy định trong văn bản luật thì không có căn cứ pháp lý để phủ nhận quyền của họ. Từ vấn đề này, cho thấy
bất cập trong mô hình đại diện của doanh nghiệp của LDN Việt Nam khi tách rời vị trí người quản lý và người ĐDTPL.
Bên cạnh đó, “Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam….” không được thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam (điểm 2, khoản 2, Điều 17 LDN năm 2020). Trường hợp người đang quản lý doanh nghiệp bị treo mã số thuế cá nhân cũng không thể đăng ký trở thành người đại diện của doanh nghiệp. Quy định đó nhằm mục đích ngăn chặn những tác động xấu cho chính doanh nghiệp và cả các đối tác của doanh nghiệp. Có thể thấy việc sử dụng thuật ngữ: “đang bị truy cứu” chưa phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vì về nguyên tắc, công dân Việt Nam chỉ bị tước đoạt một số quyền công dân khi có hành vi vi phạm pháp luật và đã bị kết án theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thực tế có trường hợp người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang bị tạm giam nhưng qua quá trình xét xử, đến cấp phúc thẩm được tuyên bố vô tội. Việc không cho họ quyền quản lý doanh nghiệp chưa tôn trọng đầy đủ quyền hợp pháp của họ. Bởi lẽ, nếu không có quyền quản lý doanh nghiệp thì không thể ủy quyền cho người khác và buộc doanh nghiệp phải lựa chọn người đại diện khác. Quy định này chưa đảm bảo quyền lợi ích chung của người đại diện khi họ đồng thời là người quản lý.
(iii) người đại diện phải có năng lực, kinh nghiệm phù hợp với các ngành nghề kinh doanh đặc thù theo quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành. Đối với một số ngành nghề đặc thù thì việc yêu cầu chuyên môn là điều đúng đắn. Luật yêu cầu người ĐDTPL của doanh nghiệp có bằng cấp chuyên môn trong lĩnh vực kinh doanh đặc biệt như luật sư, kiểm toán độc lập, công chứng, thẩm định giá, y tế, dược phẩm, ngân hàng. Bởi vì những loại dịch vụ này có điểm đặc thù là tính chịu trách nhiệm cao đối với khách hàng và bên thứ ba. Ví dụ như: người ĐDTPL của doanh nghiệp kiểm toán là kiểm toán viên hành nghề (Điều 21 Luật Kiểm toán độc lập năm 2015); hay TGĐ/Giám đốc tổ chức tín dụng phải có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Khoản 4 Điều 50 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm TGĐ, Chủ tịch HĐQT, các thành viên HĐQT, và các thành viên Ban kiểm soát phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê chuẩn (Thông tư số 22/2018/TT- NHNN ngày 05/9/2018 và Thông tư 13/2020/TT-NHNN ngày 13/11/2020 về
sửa đổi một số điều của Thông tư 22/2018/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 28/12/2020). Một trong các điều kiện để rà soát là tiêu chuẩn “có đạo đức nghề nghiệp” trong luật. Đây là tiêu chuẩn khó định lượng để Ngân hàng Nhà nước sử dụng là căn cứ chấp thuận hay không chấp thuận danh sách nhân sự quản lý cấp cao mà các tổ chức tín dụng đã đề ra. Quy định tiêu chuẩn riêng của ngành đặc thù là đúng song cần lượng hóa chi tiết và có chế độ thông tin công bố minh bạch. Bởi lẽ, nếu không minh bạch thông tin, quy định này dễ có khả năng trở thành một rào cản cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, ý nghĩa của sự phê chuẩn khác với ý nghĩa của việc doanh nghiệp đăng ký danh tính với cơ quan nhà nước. Trách nhiệm lựa chọn nhân sự thỏa mãn tiêu chuẩn nên thuộc về quyền quyết định nhân sự thuộc về doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ nên siêt chặt việc kiểm tra và truy cứu trách nhiệm khi doanh nghiệp vi phạm.
So sánh với Luật Trung Quốc, cho thấy quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề này không quá chặt chẽ. Luật doanh nghiệp Trung Quốc năm 1993, sửa đổi năm 2013 quy định tiêu chuẩn để một cá nhân trở thành người ĐDTPL của doanh nghiệp không thuộc các trường hợp sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nguyên Tắc Điều Chỉnh Quan Hệ Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp
- Đảm Bảo Nguyên Tắc Phù Hợp Với Cơ Cấu Quản Trị Hiện Đại Của Doanh Nghiệp
- Thực Trạng Pháp Luật Về Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp
- Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 14
- Nghĩa Vụ Của Người Đại Diện Theo Pháp Luật Đối Với Doanh Nghiệp
- Cơ Chế Giám Sát Người Đại Diện Của Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.
“- Là người không đủ năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Là cá nhân bị kết án hình sự về các tội tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản hoặc phá vỡ trật tự kinh tế xã hội và đã hoàn thành thời hạn tù chưa đủ 5 năm; hoặc bị tước bỏ các quyền chính trị do phạm tội và đã hoàn thành thời hạn phạt tù chưa đủ 5 năm;
- Là cá nhân từng là giám đốc hoặc người quản lý phải chịu trách nhiệm đối với doanh nghiệp bị phá sản hoặc bị thu hồi giấy đăng ký kinh doanh, và chưa đầy ba năm kể từ khi doanh nghiệp phá sản hoặc bị thu hồi giấy phép;
- Là cá nhân có các khoản nợ đến hạn không có khả năng thanh toán”,
…[124, Điều 57].
Dù quy định chặt chẽ hơn, song so sánh quy định từng tiêu chí, cho thấy các nhà lập pháp Trung Quốc sử dụng đúng thuật ngữ: “đã bị kết án” chính xác hơn LDN Việt Nam.
Từ sự phân tích và so sánh trên, có thể thấy quy định của pháp luật của Việt Nam tạo môi trường kinh doanh cho các thương nhân và doanh nghiệp khi không quy định quá nghiêm khắc về điều kiện đạo đức và năng lực của cá nhân người đại diện, trừ các doanh nghiệp đang hoạt động trong các ngành nghề đặc thù. Các quy định đó một phần tạo điều kiện cho việc thành lập và quản lý doanh nghiệp, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân và doanh nghiệp.
b. Quy định của pháp luật về thời điểm có hiệu lực của quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Thay đổi người ĐDTPL trong trường hợp cần thiết là yêu cầu hợp pháp của doanh nghiệp song pháp luật doanh nghiệp hiện nay chưa hướng dẫn thời điểm có hiệu lực của quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Hiện nay, việc thực hiện thủ tục bãi nhiệm, miễn nhiệm người ĐDTPL của công ty được thực hiện theo hai bước:
Bước 1, thực hiện thủ tục bãi nhiệm, miễn nhiệm tại nội bộ công ty. Trong Công ty TNHH hai thành viên trở lên, thẩm quyền quyết định thay đổi người ĐDTPL được trao cho HĐTV hoặc HĐQT đối với CTCP. Trong các quyết định của chủ sở hữu công ty, quyết định của HĐTV công ty TNHH hai thành viên trở lên, quyết định của HĐQT Công ty cổ phần luôn có điều khoản quy định thời điểm có hiệu lực của quyết định.
Bước 2, thực hiện thủ tục thông báo bãi nhiệm, miễn nhiệm tại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Quyết định thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp này cần phải thông báo lên Phòng đăng ký kinh doanh, khi được Phòng đăng ký kinh doanh chấp thuận thì người đại diện mới này mới được ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, thủ tục thay đổi người đại diện hoàn tất về mặt đăng ký hành chính với cơ quan nhà nước.
Vấn đề thực tế nhiều doanh nghiệp đang lúng túng về việc xác định thời điểm người ĐDTPL mới được quyền thay mặt công ty giao dịch và ký hợp đồng. Luật Doanh nghiệp hiện nay quy định chưa rò ràng. Thực tế, có nhiều trường hợp, doanh nghiệp chấp nhận tình trạng đợi đến khi hoàn tất thủ tục thay đổi giấy đăng ký kinh doanh mới để người đại diện mới ký với hợp đồng, giấy tờ giao dịch với cơ quan tổ chức khác. Do quy định tại Khoản 2 Điều 34 Nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh: các thông tin trên GCNĐK doanh nghiệp có giá trị pháp lý kể
từ ngày Phòng Đăng ký kinh doanh cấp GCNĐK doanh nghiệp làm nhiều người hiểu nhầm về thời điểm có thẩm quyền của người ĐDTPL được thay đổi mới. Vấn đề này nên được giải thích theo hướng: trường hợp cấp GCNĐK doanh nghiệp lần đầu, các thông tin trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có giá trị pháp lý kể từ ngày cấp. Còn trong trường hợp thay đổi người đại diện, nếu chờ cho đến khi chấp thuận Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới sẽ tạo ra một khoảng trống thời gian trong việc chuyển giao quyền đại diện (từ khi có quyết định thay đổi có hiệu lực cho đến khi được cấp lại Giấy) mà công ty không thể một ngày không có người ĐDTPL. Đây chỉ là thủ tục về mặt hành chính, không thể là rào cản ngăn cản, làm chậm trễ quyền tự quyết trong quản trị của công ty. Do đó, nên bổ sung trong Nghị định 01/2021/NĐ-CP hướng dẫn LDN năm 2020 về thủ tục đăng ký kinh doanh về trường hợp quyết định thay đổi người ĐDTPL có hiệu lực theo quyết định nội bộ của doanh nghiệp, không phụ thuộc vào thời điểm thực hiện thủ tục hành chính.
c, Quy định của pháp luật về thỏa thuận chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật
Pháp luật doanh nghiệp hiện nay chưa có quy định rò ràng về việc chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp dựa trên các quy định Điều lệ hoặc theo thỏa thuận. Cụ thể là: LDN chưa có quy định nào nhằm hạn chế các trường hợp thỏa thuận chấm dứt tư cách ĐDTPL không hợp pháp. Đó là các trường hợp có thỏa thuận miễn nhiệm tư cách người ĐDTPL có dấu hiệu của sự kết hợp quyền lợi của các cổ đông hoặc nhằm mục đích để trốn tránh trách nhiệm có liên quan đến hành vi vi phạm trong quá khứ. Việc thay đổi người đại diện hoàn toàn được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận khi hoàn thiện đủ thủ tục chứ chưa có cơ chế pháp lý riêng để kiểm soát trường hợp này. Một trong các dấu hiệu này có thể nhìn thấy trong vụ Công ty TNHH Khải Đức. Theo đó, việc thay đổi người ĐDTPL được thực hiện trong bối cảnh doanh nghiệp đang thanh, kiểm tra từ phía cơ quan nhà nước. Công ty TNHH Khải Đức (Khải Silk) có 2 thành viên góp vốn là ông Hoàng Phi Phi (góp 365 triệu đồng, chiếm tỉ lệ gần 1%), ông Hoàng Khải (46,135 tỉ đồng, chiếm tỉ lệ 99%). Ông Hoàng Khải là Chủ tịch HĐTV đồng thời là người ĐDTPL. Khi Bộ Công Thương thanh, kiểm tra đối với Công ty TNHH Khải Đức về việc chấp hành pháp luật trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Công ty TNHH Khải Đức đã thay đổi người ĐDTPL từ Ông Hoàng Khải sang bà Nguyễn Thu Nga (nhận chuyển nhượng 100 triệu từ phần vốn góp của Ông Khải và 365 triệu phần vốn góp của Hoàng Phi [102]. Xét riêng trường hợp thay đổi ĐDTPL do muốn trốn tránh trách nhiệm, nếu có các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, việc thỏa thuận từ bỏ vị trí người ĐDTPL không là căn cứ để miễn trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp đang bị thanh tra các vấn đề về thuế, tài chính, các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các hành động thỏa thuận từ bỏ vị trí đại diện nhằm lẩn tránh trách nhiệm hoặc gây khó khăn cho việc thanh tra của cơ quan nhà nước phải bị vô hiệu. Điều khoản này cần bổ sung trường hợp: doanh nghiệp đang bị thanh tra thuế, tài chính hoặc các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Mặt khác, Khoản 1 Điều 65 Nghị định 01/2021/NĐ-CP hướng dẫn LDN năm 2020 về đăng ký kinh doanh đã có quy định về các trường hợp không được thay đổi nội dung trên GCNĐK doanh nghiệp trong đó có nội dung người ĐDTPL của doanh nghiệp song quy định chưa đủ. Doanh nghiệp không thể thay đổi người ĐDTPL trong các trường hợp sau: (i) Đã bị Phòng Đăng ký kinh doanh ra Thông báo về việc vi phạm của doanh nghiệp thuộc trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc đã bị ra Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. (i) Đang trong quá trình giải thể theo quyết định giải thể của doanh nghiệp. (iii) Theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án hoặc cơ quan điều tra, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. (iv) Doanh nghiệp đang trong tình trạng pháp lý “không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng kí”. Tuy nhiên, nếu chỉ quy định cứng nhắc theo hướng không cho phép thay đổi người đại diện trong giai đoạn này sẽ ảnh hưởng các trường hợp doanh nghiệp muốn thay đổi khi người đại diện có hành vi vi phạm, không đủ uy tín tiếp tục lãnh đạo. Trong trường hợp này, nên quy định hướng mở: những thay đổi về người đại diện doanh nghiệp trong giai đoạn này cần được giải quyết bằng Quyết định công nhận của Tòa án để phòng tránh trường hợp trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ. Trên cơ sở đó, Phòng đăng kí kinh doanh sẽ thực hiện thủ tục công nhân người ĐDTPL mới.
Luật doanh nghiệp năm 2020 không có quy định bảo vệ người ĐDTPL trong trường hợp bị buộc chấm dứt tư cách người ĐDTPL của doanh nghiệp với li do người đại diện có hành vi vi phạm. Một trong các căn cứ viện dẫn để miễn nhiệm tư cách ĐDTPL của doanh nghiệp là người đại diện vi phạm nghĩa vụ của họ theo Điều lệ hoặc chức năng, nhiệm vụ của họ. Điều này làm xuất hiện rất nhiều vụ kiện tại Tòa án với nội dung: yêu cầu hủy quyết định chấm dứt người ĐDTPL của công ty. Tranh chấp tại Công ty Du lịch Saigon tourist được phân tích tại mục 3.2 là một ví dụ. Trong thời gian giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa, việc quyết định người ĐDTPL hợp pháp trở nên phức tạp hơn khi người đại diện giữ con dấu và đã ban hành nhiều văn bản không có sự đồng thuận trong nội bộ công ty. Pháp luật Việt Nam không có quy định của pháp luật nào xác định phương thức làm việc minh bạch trong việc miễn nhiệm người ĐDTPL. Việt Nam nên tham khảo Điểu 169 Luật Công ty của Anh: “việc miễn nhiệm giám đốc bằng nghị quyết của Hội đồng phải được thông báo tới giám đốc bị miễn nhiệm. Giám đốc có quyền tham gia cuộc họp về việc miễn nhiệm bất kể người đó có phải là thành viên của Hội đồng hay không”. Quy định này sẽ giúp cho doanh nghiệp giải quyết mâu thuẫn trong cuộc họp nội bộ trước chứ không đợi việc giải quyết tại Tòa án.
Bên cạnh đó, việc đánh giá hành vi vi phạm của người ĐDTPL cũng cần xét đến yếu tố lỗi. Nếu tách riêng quyền đại diện bên cạnh quyền quản lý doanh nghiệp như mô hình đại diện hiện nay trong LDN Việt Nam, trong trường hợp người đại diện chỉ thực hiện mệnh lệnh của cơ quan có quyền quản lý thì người đại diện không phạm bất kỳ lỗi nào. Công ty không thể đổ lỗi cho người ĐDTPL vì những thiệt hại xảy ra, bởi vì hành vi đại diện chỉ là nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại này nằm trong quyết định của cơ quan quản lý. Các yếu tố sau đây cần được xem xét khi đánh giá lỗi của người ĐDTPL: người đại diện đã ký kết hợp đồng trên cơ sở quyết định của cuộc họp chung; khi giao dịch được thiết lập, người đại diện đã gửi lưu ý tới một cơ quan có thẩm quyền cao hơn (HĐQT/HĐTV, ĐHĐCĐ), và tình huống buộc người ĐDTPL phải thực hiện một cách trung thực quyết định của một cơ quan khác. Khi người đại diện
đóng vai trò kép, đồng thời là một thành viên trong cơ quan có liên quan đến việc đưa ra quyết định sai trái và vẫn thực thi quyết định đó trong khi biết rằng nó có thể gây hại cho pháp nhân, người đại diện vẫn phải chịu trách nhiệm do lỗi quản lý. So sánh nguyên tắc này trong thực tế, tác giả nhận thấy việc tách rời chức danh người ĐDTPL với chức danh quản lý không hợp lí bởi đảm nhận quyền đại diện đứng độc lập chỉ mang tính chất hành chính với cơ quan nhà nước trong việc đăng ký và quản lí doanh nghiệp, còn vai trò thực sự với hoạt động của doanh nghiệp không có nhiều lợi ích.
3.1.4. Thẩm quyền của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
a. Căn cứ phát sinh thẩm quyền đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Thẩm quyền này được xác định dựa trên hai nguồn chủ yếu: theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
* Thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy định trong văn bản pháp luật
Như đã khẳng định, người ĐDTPL là người thay mặt cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp thực hiện yêu cầu giải quyết việc dân sự, là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Từ khái niệm đó, có thể chỉ ra một số nội dung trong quyền hạn của người đại diện:
Thứ nhất, LDN năm 2014 và LDN năm 2020 thiếu vắng các quy định liên quan đến thẩm quyền của người ĐDTPL một cách độc lập mà chỉ có quy định về nghĩa vụ của người ĐDTPL tại Điều 13. Bên cạnh đó, LDN quy định về thẩm quyền của những người quản lý cấp cao trong doanh nghiệp theo từng loại hình cụ thể. Điều này cho thấy LDN Việt Nam chưa thống nhất một mô hình trong luật, nếu cho phép người quản lý có quyền đại diện thì cần quy định thẩm quyền đại diện cho các chức danh quản lý trong doanh nghiệp. Nếu thừa nhận người ĐDTPL độc lập thì phải quy định về thẩm quyền đại diện tách riêng. Trong từng loại hình doanh nghiệp, thẩm quyền của những người quản lý như Chủ tịch HĐQT/Chủ tịch HĐTV, Tổng giám đốc/Giám đốc được quy định theo các loại hình doanh nghiệp cụ thể. Nhưng nội dung các điều luật này được hiểu là thẩm quyền quản lý doanh nghiệp chứ không phải là thẩm quyền đại diện.