Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 14

So sánh với quy định của pháp luật của các nước có thừa nhận chức danh ĐDTPL chung của doanh nghiệp như Trung Quốc, có thể thấy pháp luật các nước có những quy định rất chi tiết về thẩm quyền đại diện. Ví dụ, Điều 20 Luật Công ty Trung Quốc ghi nhận về thẩm quyền của ĐDTPL của doanh nghiệp: “(i) hành động để bảo toàn tài sản của công ty; (ii) tham gia và chủ trì cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông và các cuộc họp của hội đồng quản trị; của giám đốc; (iii) hành động thay mặt cho công ty dựa vào Giấy ủy quyền; (iv) ủy quyền đại diện pháp lý trong trường hợp có tranh chấp; (v) thực hiện tất cả các giao dịch nằm trong phạm vi tự nhiên và phạm vi kinh doanh của Công ty; (vi) chịu trách nhiệm về các con dấu của công ty”.

Thứ hai, LDN thiếu quy định một cách rò ràng, minh thị về các quyền của người đại diện, chẳng hạn như quyền được nhận thông tin. Cụ thể là người đại diện không phụ thuộc vào vị trí quản lý mà người đó đảm nhiệm phải được thông báo về các cuộc họp thường xuyên và đặc biệt của HĐQT/HĐTV, các báo cáo liên quan đến thuế, tài chính trong quy định của pháp luật thuế hay chứng khoán đối với doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, LDN cũng không quy định về quyền được miễn trừ trách nhiệm đối với người đại diện trong trường hợp họ có vi phạm. Trong pháp luật Anh có ghi nhận về điều khoản miễn trừ nghĩa vụ trong trường hợp người đó đã hành động một cách trung thực và hợp lý. Sự hợp lý của hành động của người đại diện cho công ty có thể phụ thuộc vào việc người đó có xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia (luật sư, tư vấn pháp lý, tài chính, chuyên môn …) trong từng bối cảnh cụ thể hay không.

Thứ ba, LND năm 2020, LDN năm 2014 và BLDS năm 2015 không xây dựng các quy định giới hạn thẩm quyền của người đại diện trong các giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp. Thông thường, đối với các giao dịch tiến hành trong hoạt động kinh doanh, thẩm quyền của người đại diện khi ký kết hợp đồng được quy định rò trong Điều lệ công ty. Tuy nhiên, các giao dịch bảo đảm cho bên thứ ba khá đặc biệt bởi các giao dịch này dễ dẫn tới sự dịch chuyển tài sản của doanh nghiệp khi bên được bảo đảm không thực hiện đúng nghĩa vụ được bảo đảm.

Khi thực hiện các giao dịch bảo đảm, việc xác định cụ thể các chủ thể có thẩm quyền được dựa trên nguyên tắc chủ sở hữu có quyền định đoạt tại BLDS

và có tham chiếu đến nguyên tắc định đoạt tài sản của doanh nghiệp được quy định tại Điều lệ Công ty. Theo đó, trong Công ty TNHH hai thành viên trở lên, việc định đoạt giao dịch có giá trị lớn hơn 50% phải có sự đồng ý của HĐTV (Điểm d Khoản 2 Điều 56 LDN năm 2020); trong CTCP, giao dịch có 35% trở lên phải có sự đồng ý của HĐQT (Điểm h Khoản 2 Điều 153 LDN năm 2020), trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác. Song điều này, dẫn đến hai cách xử lý trong thực tế. Một là, ngân hàng bắt buộc tất cả mọi người ĐDTPL của doanh nghiệp cùng các thành viên HĐTV/HĐQT phải ký tên trong hợp đồng thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản để đảm bảo an toàn pháp lý. Hai là, chỉ yêu cầu người ĐDTPL ký tên trên hợp đồng thế chấp khi rà soát Điều lệ đã thỏa mãn quy định về tỷ lệ giá trị tài sản. Trên thực tế có trường hợp người ĐDTPL của doanh nghiệp thực hiện giao dịch bảo lãnh cho khoản vay của người thứ ba mà hai thành viên khác của HĐTV không biết về giao dịch đó, trong khi căn cứ theo Điều lệ, giao dịch hợp pháp do không vi phạm quá phạm vi thẩm quyền được xem xét của người đại diện nắm giữ vai trò giám đốc công ty.

Trong trường hợp này, nghiên cứu pháp luật các nước sẽ cung cấp kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam. Bộ luật thương mại Pháp năm 1807, sửa đổi bổ sung năm 2020 quy định: “việc chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn cổ phần, cung cấp các khoản bảo đảm, lợi nhuận và bảo lãnh sẽ yêu cầu sự chấp thuận của ban giám sát trừ khi công ty là ngân hàng hoặc tổ chức tài chính” "[117, Điều 225-68]. Sự đồng ý khẳng định quyền lực giám sát của BKS. Người ĐDTPL không thể đại diện cho doanh nghiệp tự mình quyết định đồng ý xác lập bảo đảm cho bên thứ ba.

* Thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định trong Điều lệ doanh nghiệp

Pháp luật cho phép doanh nghiệp được quy định về thẩm quyền của người đại diện tại Điều lệ doanh nghiệp. Điều lệ doanh nghiệp được xem là “hiến pháp” của doanh nghiệp. Đây là văn bản do những thành viên của doanh nghiệp thỏa thuận lập ra, trong đó ghi nhận những thông tin về doanh nghiệp, quy định về cơ cấu quản trị của công ty và những quy tắc phải tuân thủ khi giao dịch giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Điều lệ công ty không được trái với quy định của pháp luật đồng thời bản thân nó là văn bản có hiệu lực cao nhất trong công ty.

Tất cả các văn bản nội bộ khác trong công ty không được trái với Điều lệ công ty. Điều lệ công ty được xem như là một văn bản nội bộ thể hiện sự tập trung, điều hòa mối quan hệ giữa các chủ sở hữu trong nội bộ công ty.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Quy định tại khoản 1 Điều 141 BLDS năm 2015 về phạm vi thẩm quyền người ĐDTPL của pháp nhân được xác định theo Điều lệ doanh nghiệp có khá nhiều rủi ro khi BLDS không đưa ra chế tài về việc vi phạm nghĩa vụ thông báo nội dung phân định thẩm quyền trong Điều lệ cho bên thứ ba. Do đó, bên đối tác phải rà soát Điều lệ của bạn hàng nhằm kiểm tra lại thẩm quyền của người đã xác lập giao dịch với mình. Trong khi đó, Điều lệ không phải lúc nào cũng được công bố công khai và dễ tiếp cận. Cơ chế công bố thông tin doanh nghiệp trong đó có thông tin về ĐDTPL của doanh nghiệp không quy định bắt buộc công khai phân định thẩm quyền của những người ĐDTPL trên cổng thông tin.

Theo tác giả, việc BLDS cho phép thẩm quyền của người ĐDTPL được hình thành trong Điều lệ doanh nghiệp là quy định không chuẩn xác bởi:

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 14

Về nguyên lí trong giao dịch với bên thứ ba, bất cứ điều khoản nào hạn chế quyền hạn của người đại diện với bên thứ ba không thể là căn cứ để thoái thác trách nhiệm của doanh nghiệp. Xuất phát từ nguyên nhân: doanh nghiệp có nhiều người đại diện thì việc hạn chế phạm vi đại diện trong nội bộ doanh nghiệp bằng các điều khoản nội bộ (Điều lệ công ty, Nghị quyết, Văn bản nội bộ) làm cho người thứ ba khó tiếp cận những hạn chế đó. Do đó, đây là quy định rất nguy hiểm khi đặt trong bối cảnh người thứ ba muốn ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp phải chứng minh doanh nghiệp “biết, im lặng không phản đối” (Điều BLDS năm 2015)

b. Xác định phạm vi thẩm quyền đại diện trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật

Quyền đại diện được phân bổ rộng rãi khi LDN cho phép công ty TNHH, CTCP có thể có nhiều người ĐDTPL và hoàn toàn trao quyền tự định đoạt cho doanh nghiệp trong việc quyết định phạm vi thẩm quyền đại diện. Trong trường hợp đó, để tránh xung đột thẩm quyền, điều quan trọng nhất là phải có một cơ chế để phân định thẩm quyền giữa những người đồng đại diện và cơ chế giải quyết tranh chấp nếu có giữa doanh nghiệp, những người đại diện và bên thứ ba.

* Thứ nhất, trong trường hợp điều lệ không quy định về phân định thẩm quyền của những người ĐDTPL:

Việc phân định thẩm quyền của các đồng ĐDTPL sau khi LDN năm 2014 có hiệu lực còn một số vướng mắc cần tháo gỡ. Đối với doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp có nhiều người ĐDTPL đang ở trong tình trạng được đại diện kép bởi nhiều người. Khi hai đồng đại diện cùng thể hiện ý chí trái ngược nhau về một vấn đề, lựa chọn ý chí của người đại diện nào và dựa trên nguyên tắc, thủ tục nào để vô hiệu hóa quyết định của người đại diện kia là vấn đề cần làm rò. Trong trường hợp, một trong các đại diện có hành vi ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp thì cơ chế xử lý khi có sự mâu thuẫn giữa hai người đại diện cần làm sáng tỏ.

Một trong các vướng mắc trên phần nào được giải quyết trong nội dung LDN năm 2020. Theo đó, “Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rò trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan

Quy định trên đã phần nào giải quyết được tình trạng trên thực tế doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật nhưng Tòa án khó xác định ai là người ĐDTPL của doanh nghiệp để tham gia tố tụng khi tất cả những người ĐDTPL đều lảng tránh trách nhiệm bằng lý do không thuộc thẩm quyền. Quy định này cũng hợp lý đối với bên thứ ba bởi sự giới hạn về thẩm quyền hoặc sự không rò ràng của Điều lệ công ty không thể là căn cứ giải phóng trách nhiệm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thay vì tuyên bố nguyên tắc đó thì các nhà làm luật mới chỉ thừa nhận trường hợp Điều lệ không quy định thì mỗi người đại diện có thẩm quyền đầy đủ. Như thế là chưa đầy đủ. Quy định này chưa giải quyết tận gốc rễ của vấn đề bởi quyền đại diện vốn bản chất là nhân danh doanh nghiệp – quyền đại diện đầy đủ. Chỉ có quyền quản lí doanh nghiệp mới có thể phân định theo từng lĩnh vực quản lí. Mặt khác, dựa trên điều khoản này căn cứ để ràng buộc trách nhiệm liên đới của tất cả những người đại diện được đặt ra cần phân định rò với tiêu chuấn đánh giá hành vi cụ thể, không suy đoán. Từ sự phân tích

trên, cần khẳng định các điều khoản của Điều lệ để công ty cần được bổ sung đầy đủ cơ chế để giải quyết hiệu quả vấn đề đồng đại diện này.

* Thứ hai, điều lệ quy định về phân định thẩm quyền giữa các đồng ĐDTPL một cách rò ràng, minh thị.

Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định trong nội dung Điều lệ bắt buộc phải có sự phân định thẩm quyền giữa những người đồng ĐDTPL. Theo quan điểm tác giả, quy định của pháp luật này đưa ra nội hàm chưa chính xác bởi quyền đại diện – nhân danh doanh nghiệp với bên ngoài rất khó để phân tách phạm vi cụ thể. Xét về mặt lý luận, chỉ có quyền quản lý quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp có thể phân định rất rò ràng do liên quan đến các lĩnh vực cụ thể trong hoạt động kinh doanh, ví dụ như nhân sự, tài chính, sản xuất kinh doanh. Nếu giữ nguyên thẩm quyền đại diện độc lập như LDN năm 2020 theo đuổi như hiện nay sẽ khó phân tách nếu không gắn nó với lĩnh vực quản lý. Hoặc cách phân định khác gắn với thẩm quyền cơ quan trong doanh nghiệp có quyền phê duyệt giao dịch như HĐQT/ HĐTV hay TGĐ/Giám đốc. Trong cả hai trường hợp trên, vô hình chung giống như mô hình ĐDTPL gắn với người quản lý doanh nghiệp (HĐQT/HĐTV) trong pháp luật các nước Anh, Nhật. Từ các quy định này, có thể nhận xét LDN Việt Nam không thống nhất khi một mặt duy trì vai trò người ĐDTPL độc lập với thẩm quyền và nghĩa vụ độc lập, mặt khác, lại hướng dẫn sự đa dạng về đại diện, gắn thẩm quyền đại diện với người quản lí trong doanh nghiệp, dù đây là các chức danh hạn chế.

Kể cả trong trường hợp Điều lệ có quy định rò ràng về giới hạn thẩm quyền đại diện thì pháp luật doanh nghiệp Việt Nam cần phải kết cấu lại các quy định này theo hướng xác định nguyên tắc chuẩn mực: bất kì điều khoản nội bộ nào hạn chế quyền hạn của người ĐDTPL đối với bên thứ ba nhằm thoái thác trách nhiệm của doanh nghiệp đối với bên thứ ba đều không được chấp nhận. Nguyên tắc này chi phối quyền đại diện với bên thứ ba thì các nội dung phân định thẩm quyền khác như nội dung Điều 13 LDN năm 2020 chỉ có ý nghĩa trong xem xét quyền quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.

Nghiên cứu LDN Việt Nam, chỉ có duy nhất loại hình CTCP có Điều lệ mẫu và trong Điều lệ mẫu ban hành chưa tìm thấy quy định nào hướng dẫn việc phân định thẩm quyền này cho các doanh nghiệp. Giải pháp của LDN năm 2014

và LDN năm 2020 mới chỉ dừng lại ở quy định chung chứ chưa có hướng dẫn cụ thể, và với thời gian áp dụng luật chưa lâu dài nên các tranh chấp xảy ra liên quan đến vấn đề này chưa nhiều để tiến hành tổng kết. Điều cần thiết để thống nhất nguyên tắc xử lý trong vấn đề đồng đại diện này là mạnh dạn trao quyền ĐDTPL cho người quản lí doanh nghiệp còn phạm vi đại diện đến đâu sẽ do Điều lệ và quy chế nội bộ doanh nghiệp tự xác định.

* Thứ ba, điều lệ có quy định về thẩm quyền giữa các đồng đại diện nhưng có sự chồng chéo, dẫn tới xung đột thẩm quyền đại diện.

Xung đột ở đây được hiểu là trường hợp thẩm quyền của các đồng ĐDTPL được xác định trong Điều lệ chồng chéo nhau. Điều đó dẫn tới xung đột thẩm quyền đại diện. Trong trường hợp các ĐDTPL của doanh nghiệp có các văn bản với nội dung khác nhau thể hiện quan điểm của doanh nghiệp nên được xác định tính hợp pháp thuộc về ai là một vấn đề khó khăn. Chỉ có các giao dịch được phân loại dựa trên thẩm quyền quản lí của các cơ quan trong doanh nghiệp (HĐQT/HĐTV, TGĐ/Giám đốc) hoặc các giao dịch dựa trên lĩnh vực quản trị (nhân sự/tài chính/sản xuất kinh doanh) chứ không có phân loại quyền đại diện bởi bản chất đầy đủ của quyền năng này trong đại diện cho pháp nhân.

Chỉ trong trường hợp đồng nhất quyền đại diện cùng với quyền quản lý, trên thực tế có thể xảy ra các trường hợp giao dịch thuộc thẩm quyền của cả hai người đồng đại diện. Trong trường hợp đó, xử lý xung đột thẩm quyền trở thành việc rất quan trọng bởi ý kiến của người đại diện nào được chấp thuận nhân danh doanh nghiệp. LDN năm 2014 và đến LDN năm 2020 đã quy định pháp nhân có thể có nhiều người ĐDTPL song chưa có một điều luật nào có thể áp dụng là nguyên tắc để giải quyết tranh chấp trong trường hợp có xung đột thẩm quyền.

c. Xử lý giao dịch dân sự do người đại diện xác lập vượt quá thẩm quyền, không có thẩm quyền đại diện

Quy định về giao dịch vượt quá thẩm quyền của người đại diện có sự liên hệ mật thiết với các quy định về đại diện trong BLDS. Người ĐDTPL của doanh nghiệp là người nhân danh doanh nghiệp, hiện thân cho doanh nghiệp nên về mặt lý luận, phải khẳng định người đại diện được thực hiện những quyền được trao cho pháp nhân. Thẩm quyền này là thẩm quyền đầy đủ khi đứng trước bên thứ ba. Do đó, chỉ có trường hợp vượt quá thẩm quyền với hành vi xác lập, thực hiện

giao dịch ngoài phạm vi năng lực pháp luật của pháp nhân. Hoặc trường hợp pháp nhân có quyền thực hiện giao dịch với lợi ích thu được từ giao dịch đó nhưng người đại diện từ chối không thực hiện đúng thẩm quyền.

Pháp luật Việt Nam chưa hợp lý khi thiếu quy định nguyên tắc bảo vệ người thứ ba triệt để trước các giới hạn về thẩm quyền của người ĐDTPL được quy định trong Điều lệ. Trong doanh nghiệp, có rất nhiều văn bản giới hạn về thẩm quyền của người ĐDTPL. Đó có thể là Điều lệ, quy chế hoạt động nội bộ, quyết định nội bộ... Do đó, người thứ ba rất khó khăn trong việc tìm hiểu các thông tin liên quan đến thẩm quyền của người ĐDTPL. Sẽ rất bất công khi người đại diện vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin về thẩm quyền, xác lập giao dịch với bên thứ ba và khi xảy ra vi phạm hợp đồng, doanh nghiệp tuyên bố không chịu trách nhiệm do giao dịch vượt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền quy định trong Điều lệ. Luật doanh nghiệp hiện nay chỉ quy định trách nhiệm hành chính phạt tiền khi không công bố Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp, còn nội dung Điều lệ phần phân định thẩm quyền không có hướng dẫn bắt buộc về việc công bố cho bên thứ ba.

Hiện nay, theo cách hiểu phạm vi thẩm quyền đại diện được hình thành từ Điều lệ, sẽ có trường hợp giao dịch được giao kết với người vượt quá thẩm quyền đại diện hoặc không có thẩm quyền đại diện. Khi LDN không quy định thì Tòa án áp dụng nguyên tắc trong BLDS với tính chất là luật chung để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong BLDS hiện hành, tại quy định về giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện, không có thẩm quyền đại diện, còn tồn tại những hạn chế như:

Thứ nhất, trách nhiệm đối với phần giao dịch vượt quá thẩm quyền thuộc về người đại diện (Điều 142 BLDS 2015). Hay nói cách khác, phần vượt quá thẩm quyền được chuyển giao trách nhiệm cho cá nhân người đã giao kết với bên thứ ba.

Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: (i) Người được đại diện đồng ý; (ii) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; (iii) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.

(Điều 142 BLDS 2015). Rò ràng, theo điều luật trên, người thứ ba ngay tình chưa được bảo vệ triệt để bởi xét về trách nhiệm và khả năng tài chính của doanh nghiệp thì chủ thể này đáp ứng tốt hơn trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có) cho người thứ ba. Doanh nghiệp cũng có thể lợi dụng quy định này để thoái thác trách nhiệm.

Thứ hai, gánh nặng chứng minh thuộc về bên thứ ba khi phải chứng minh được yếu tố: doanh nghiệp phải có lỗi làm cho người thứ ba không biết được giới hạn phạm vi thẩm quyền mới ràng buộc được trách nhiệm của doanh nghiệp. Trong khi đó, lẽ ra phải chứng minh là người thứ ba không biết hoặc không thể biết về giới hạn thẩm quyền đó. Trong thực tế, việc thu thập các quyết định nội bộ của doanh nghiệp khi xảy ra sự việc tranh chấp rất khó khăn đối với người bên ngoài doanh nghiệp. Hoặc, doanh nghiệp có khả năng sẽ thay đổi nội dung Điều lệ để trốn tránh trách nhiệm.

Để xử lý các trường hợp trên, có thể tham khảo quy định của Pháp về giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện đối với công ty cổ phần. “Chủ tịch là người ĐDTPL của công ty, người có các quyền hạn rộng nhất để thực hiện giao dịch nhân danh công ty. Do đó, công ty cổ phần bị ràng buộc vào các hợp đồng do chủ tịch ký kết ngay cả khi giao dịch đó không phù hợp với quy chế hoạt động của công ty, trừ trường hợp bên thứ ba ký kết hợp đồng biết rằng giao dịch đó vượt quá quy chế hoạt động của công ty hoặc không thể biết về quy định hạn chế đó. Trong trường hợp Điều lệ có quy định về các điều kiện theo đó, một hoặc nhiều người, ngoài chủ tịch, có chức danh giám đốc điều hành hoặc phó giám đốc điều hành, có thể đại diện cho công ty thực hiện các quyền được giao” (Điều 227-6 Luật Thương mại Pháp). Theo điều luật, trách nhiệm chứng minh đối với bên thứ ba thuận lợi hơn.

Đối với công ty TNHH, “Trong quan hệ với bên thứ ba, công ty bị ràng buộc, ngay cả khi các hành vi của Ban giám đốc (những người đại diện) không phù hợp về thẩm quyền, trừ khi công ty chứng minh rằng bên thứ ba biết rằng hành động đã vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền hoặc bên thứ ba ở trong hoàn cảnh không thể không biết về thẩm quyền và việc công khai các bản ghi nhớ hay các điều khoản của việc hợp tác không đủ để tạo thành bằng chứng phù hợp” (Điều 225-35 đoạn 2). Nghiên cứu các điều luật trên, khi người thứ ba có căn cứ

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí