Đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 - 2


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ BỘ DÂN LUẬT BẮC KÌ 1931


1.1. Hoàn cảnh ra đời của Bộ Dân luật Bắc Kì 1931

Từ thế kỉ XVI, chế độ phong kiến châu Âu đã bước vào giai đoạn chót, sửa soạn cho cách mạng tư sản. Chế độ phong kiến ở Việt Nam cũng chuyển từ thịnh trị sang suy yếu nhưng chưa có mầm mống tư bản chủ nghĩa. Thế kỉ XVIII - XIX, thế giới có những biến đổi vô cùng sâu sắc, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra, nhà nước tư sản ra đời thay thế nhà nước phong kiến. Ở phương Đông, duy nhất có Nhật Bản duy tân đất nước, kịp tiến lên tư bản chủ nghĩa. Từ đó, các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa đua nhau đi xâm chiếm thuộc địa.

Trong khi đó, chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan, lỗi thời và bảo thủ của nhà Nguyễn đã làm kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm mất năng lực phòng thủ đất nước, dẫn đến việc nước ta bị rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp.

Sau một thời gian thăm dò và chuẩn bị, ngày 1/9/1858, đế quốc Pháp nổ súng tấn công vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cho thời kì xâm lược và thống trị thực dân ở Việt Nam. Bị sa lầy ở mặt trận Đà Nẵng, Pháp phải thay đổi kế hoạch tấn công và đem quân vào đánh Gia Định. Do cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rộng khắp và bền bỉ của nhân dân ta, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của người Pháp bị thất bại và việc xâm chiếm Việt Nam phải kéo dài gần ba thập kỉ. Trong quá trình đó, Pháp đã thực hiện phương châm "tằm ăn lá", là chiếm dần đất, lấn dần chủ quyền và từng bước thiết lập bộ máy cai trị.

Tháng 2/1859, Pháp chiếm Gia Định; tháng 4/1861 chiếm Định Tường (Mĩ Tho); tháng 12/1861 chiếm Biên Hoà. Ngày 5/6/1862, nhà Nguyễn kí với Pháp một hiệp ước 12 điều khoản nhường hẳn cho Pháp 3 tỉnh trên. Đến ngày


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 45 trang tài liệu này.

14/3/1874, triều đình Huế kí tiếp bản hiệp ước thứ hai chính thức xác nhận lục tỉnh Nam Kì là đất thuộc địa của Pháp (thêm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Quá trình mở rộng xâm lược đó cho đến năm 1879, đây là quá trình Pháp xác lập được bộ máy cai trị ở Nam Kì.

Từ năm 1882, Pháp mở rộng xâm lược ra phía Bắc. Ngày 25/8/1883, nhà Nguyễn kí Hiệp ước thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngày 6/6/1884, Pháp buộc nhà Nguyễn kí hiệp ước mới với nội dung cơ bản là khẳng định lại nội dung Hiệp ước năm 1883. Cũng như trước đây ở Nam Kì, trong quá trình đánh chiếm đất Bắc, Pháp đã xác lập dần bộ máy chính quyền thuộc địa ở Bắc Kì và Trung Kì.

Đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 - 2

Sau khi đánh chiếm Bắc Kì và Trung Kì, kể từ Hiệp ước năm 1883 và Hiệp ước năm 1884, Pháp chuyển hai xứ này trực thuộc Bộ chiến tranh Pháp, sau đó sang Bộ ngoại giao, trong khi Nam Kì vẫn trực thuộc Bộ hải quân và thuộc địa. Sự thiếu thống nhất này đã gây cho Pháp không ít khó khăn. Trước tình hình đó và để tăng cường, ổn định nền thống trị, đẩy mạnh khai thác thuộc địa, Pháp đã tiến hành hoàn chỉnh và củng cố một bước mới chính quyền thuộc địa.

Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập "Liên bang Đông Dương" thuộc Pháp. Sắc lệnh này cùng với một số sắc lệnh được ban hành sau đó quy định về Toàn quyền Đông Dương là những văn bản tạo ra cơ sở pháp lí cơ bản để hoàn thiện và củng cố chính quyền thuộc địa ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Khi mới thành lập, Liên bang Đông Dương gồm Việt Nam và Cămpuchia. Sắc lệnh ngày 19/4/1889 đưa Lào vào Liên bang Đông Dương và từ năm 1890 thêm Quảng Châu Loan (vùng đất mà Pháp đã chiếm được của Trung Quốc). Liên bang Đông Dương do Bộ thuộc địa Pháp trực tiếp quản lí.

Về quy chế chính trị, toàn liên bang Đông Dương là đất thuộc địa của Pháp, là lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp. Liên bang Đông Dương gồm các xứ với những quy chế chính trị tương ứng sau đây:


- Lào: Quy chế "bảo hộ".

- Campuchia: Quy chế "bảo hộ".

- Quảng Châu Loan: Quy chế "lãnh địa thuê".

- Bắc Kì (từ Ninh Bình ra Bắc): Quy chế "bảo hộ" (trừ hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng theo quy chế đất "thuộc địa").

- Trung Kì (từ Thanh Hoá vào tới Bình Thuận): Quy chế "bảo hộ" (trừ thành phố Đà Nẵng theo quy chế "thuộc địa").

- Nam Kì: Quy chế "thuộc địa".

Dù quy chế chính trị khác nhau nhưng thực chất đều là thuộc địa.

Ba xứ ở Việt Nam thường được người Pháp gọi chung bằng một địa danh "An Nam thuộc Pháp". Nam Kì, Trung Kì, Bắc Kì hưởng các quy chế chính trị khác nhau, nên có những hình thức tổ chức chính quyền và các quy chế pháp lí khác nhau.

Trong thời kì này, thực dân Pháp đã tiến hành tìm hiểu phong tục tập quán, lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam và đi đến nhận xét:

Chúng ta thấy ở đây cả một nền văn minh, kể cả khoa học pháp lý Nhà nước đều đã phát triển mạnh mẽ. Luật pháp, cổ phong, tôn giáo, văn học, tất cả đã hoàn chỉnh và hoà hợp với nhau, trải qua bao nhiêu thế kỷ đã được điều hoà và ngày càng hoàn hảo thêm. Những vết tích man rợ đã mất đi từ lâu, dân tộc này đã sống trong một xã hội thuần thục có tổ chức trong khi những người phương Tây còn ở tình trạng bán khai. Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, tôn kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, coi trọng lời thánh hiền, thương yêu nòi giống, tôn kính lẽ phải; ghét xa hoa không hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ hy sinh; đó là những đức tính răn dạy trong sách Thánh hiền, lưu lại trong cổ phong và ghi thành luật pháp… [9, tr. 425- 426].

Về mặt xã hội, từ khi tiến hành cai trị đất nước Việt Nam, thực dân


Pháp đã khiến cho cách tổ chức của xã hội Việt Nam trước đây bị phá huỷ. Khắp nơi bọn thực dân coi thường phong tục tập quán của người Việt Nam, đã tiến hành cướp bóc tài sản của người dân Việt Nam một cách triệt để. Chúng đã không mang đến nền văn minh cao cả cho dân tộc Việt Nam như chúng thường nói, mà còn gây nên sự khủng hoảng cả về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và để lại di hại lâu dài. Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị, cố tâm huỷ bỏ Hán học mà chúng thấy là nguy hiểm cho sự thống trị của chúng mà thay thế vào đó bằng nên giáo dục của Pháp. Trong một bản báo cáo về tình hình Đông Dương, tướng Panơcanh viết: “Trong 50 năm chiếm đóng ở Nam Kì và 25 năm chiếm đóng ở Bắc Kì, những trường học Pháp không đào tạo lấy một người An Nam thực sự có học thức”.

Về mặt kinh tế, Việt Nam có nguồn khoáng sản đáng kể, người ta ước tính mỏ than ở Bắc kì có đến 12 tỷ tấn. Tuy nhiên, các hầm mỏ ở Đông Dương khai thác rất tồi. Người Pháp không bỏ ra một lượng vốn lớn mà chỉ vơ vét những gì dễ vơ vét để bỏ vào túi mình. Nông nghiệp kém phát triển vì phương thức canh tác lạc hậu và cũng vì sự cướp bóc của thực dân Pháp.

Ở Việt Nam thời kì này có tất cả 140 đồn điền cao su và hàng ngàn hécta rừng bị bọn thực dân Pháp bắt người dân Việt Nam chặt gỗ bán cho mình.

Ba cảng lớn (Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng) bình quân hang năm có đến 5500 tàu và thuyền buôn lớn vào ra chuyên chở từ 7 triệu tấn hang hoá nhập cảng và xuất cảng.

Về mặt tài chính do nhà bang Đông Dương nắm bá quyền, năm 1876 doanh số của nó là 24.000.000 phơ răng và đến năm 1921 con số ấy lên đến 145.000.000 phơ răng.

Trong thời kỳ này, thực dân Pháp còn thu hút sự độc quyền vào các công ty của mình ở Việt Nam: độc quyền muối, độc quyền rượu, độc quyền thuốc phiện.

Có tài nguyên phong phú trên đất nước mình, có những số tiền kếch xù


luân chuyển xung quanh mình mà người dân Việt Nam lại sống trong cảnh nghèo nàn nhất. Sự phồn thịnh ấy do bàn tay họ làm nên nhưng họ không được hưởng. Sự áp bức về mặt kinh tế nặng trĩu trên vai người bản xứ.

Do nhận thức được vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội nên sau khi xâm chiếm Việt Nam và để bước đầu thực hiện quyền được qui định trong cái gọi là “Hiệp ước hoà bình và hữu nghị” ngày 5 tháng 6 năm 1862 thực dân Pháp đã tổ chức bộ máy cai trị của chúng và ban hành những bộ dân luật đầu tiên của Việt Nam, phù hợp với chinh sách nham hiểm “ chia để trị”. Chính quyền thực dân - phong kiến rất chú trọng xây dựng luật pháp và luôn coi đó là phương tiện cai trị hữu hiệu.

Pháp luật về dân sự bao gồm các bộ luật dân sự được ban bố ở ba xứ Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì, một số nghị định của Toàn quyền Đông Dương, một số đạo dụ của nhà vua. Pháp luật dân sự quy định các quan hệ về khế ước (hợp đồng) và trái vụ (nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng), về sở hữu, về hôn nhân và gia đình, về thừa kế, về trách nhiệm dân sự, tất cả đều nhằm bảo vệ quyền lợi của các tập đoàn tư bản Pháp và địa chủ phong kiến bản xứ và ở mức độ nhất định, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.

Hệ thống pháp luật về dân sự thời Pháp thuộc, với những nội dung chủ yếu như đã trình bày ở trên nhằm các mục đích chính sau đây:

- Duy trì chế độ thuộc địa ở Đông Dương, bảo vệ địa vị thống trị của người Pháp ở Đông Dương và của phong kiến bản xứ.

- Khai thác triệt để và bóc lột sức người sức của ở thuộc địa;

- Bảo đảm sự độc quyền của tư bản Pháp, buộc nền kinh tế ở thuộc địa hoàn toàn phụ thuộc vào chính quốc.

Trong hệ thống pháp luật về dân sự thời Pháp thuộc, đáng chú ý nhất là Bộ dân luật Bắc Kì ở đó chứa đựng nhiều nội dung quan trọng của luật pháp của chế độ thực dân phong kiến bấy giờ.

Tên đầy đủ của Bộ luật này là “Bộ dân luật thi hành tại các toà Nam án


Bắc Kì”. Bộ luật này được soạn thảo trong một khoảng thời gian khá dài. Ngay từ năm 1917, Toàn quyền Đông Dương đã ra nghị định thành lập một Uỷ ban Việt - Pháp soạn thảo Bộ Dân luật Bắc Kì. Uỷ ban này đã làm việc liên tục trong 4 năm và đến năm 1921, soạn thảo xong quyển thứ nhất, gồm 91 điều, mới chỉ quy định về người và tài sản. Quyển này được ban hành thực hiện thí nghiệm ở tỉnh Hà Đông. Năm 1927, Uỷ ban cố vấn về luật lệ Việt Nam được thành lập, bao gồm một số người Pháp và người Việt để khảo cứu các tục lệ về gia đình, thừa kế, hương hỏa, giúp cho việc bổ sung và hoàn chỉnh bộ luật. Năm 1931, Bộ luật chính thức được ban bố.

1.2. Nguyên tắc cơ bản xây dựng Bộ Dân luật Bắc Kì 1931

Bộ Dân luật Bắc Kì được đánh giá là một thành tựu lập pháp tiêu biểu của pháp luật Việt Nam ở thời kì Pháp thuộc. Dù ra đời cùng một thời kì với Bộ Dân Dân sự Trung Kì 1936 và Bộ Luật Dân sự giản yếu ở Bắc kì 1833 nhưng Bộ Dân luật Bắc Kì vẫn có những điểm rất riêng do nguyên tắc xây dựng Bộ Dân luật Bắc Kì 1931. Điều này đã tạo thành đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 so với hai bộ luật còn lại.

Nếu xét theo vùng, ở ba xứ có ba quy chế chính trị khác nhau nên mỗi xứ có một quy chế pháp lí:

Nam Kì (cùng ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) là đất thuộc địa nên khi xét xử, toà án Pháp sẽ áp dụng luật pháp của Pháp.

Về việc hộ, có Bộ dân luật giản yếu áp dụng cho người Việt Nam. Đối với người Pháp và những người ngoại kiều được biệt đãi như người Pháp (Âu, Mỹ, Nhật, Trung Hoa) thì toà áp dụng Bộ dân luật Pháp.

Nam Kỳ là xứ thuộc địa của Pháp. Do đó, vào những thập kỷ cuối của thế kỷ 19 các tranh chấp pháp lý đều do các tòa án Pháp xử. Nhu cầu về pháp luật theo kiểu của Pháp được đặt ra.

Bộ giản yếu được ban hành vào ngày 26/03/1884, nhưng vẫn quen gọi


là Bộ Dân luật giản yếu năm 1883 bởi trước đó có hai sắc lệnh được ban hành vào năm 1883 liên quan tới quốc tịch, cư trú và hộ tịch.

Về phạm vi, Bộ luật này chủ yếu chỉ quy định về nhân thân. Chẳng hạn: theo mô hình Pháp, Bộ luật này quy định người 21 tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Trong khi đó, Bộ luật Gia Long và tục lệ quy định người con hay cháu trong gia đình dù ở bất kỳ tuổi nào, nếu sống chung với gia trưởng thì phải thuộc quyền của gia trưởng và không có tài sản riêng. Nguyên nhân không phát triển luật dân sự và luật thương mại ở Bộ luật Gia Long là người Việt sống trong đại gia đình theo chế độ gia trưởng và ảnh hưởng của Khổng Giáo về việc khi ông bà cha mẹ còn sống thì con cái không dám nghĩ tới bản thân mình chứ chưa nói tới có tài sản riêng tư. Vì vậy, họ bị hạn chế toàn Bộ tự do ý chí. Từ đó dẫn tới hệ quả là hạn chế giao lưu dân sự và không thể góp vốn tạo lập các thương hội hoặc tự mình kinh doanh. Tuy nhiên, do phạm vi quy định của Bộ luật dân sự giản yếu hẹp, nhiều khi các tòa án phải áp dụng cả các quy định của Bộ luật Gia Long nên có sự mâu thuẫn về tư tưởng và về giải pháp giữa hai Bộ luật này.

Ở Trung Kì (trừ thành phố Đã Nẵng) là đất bảo hộ nên khi xét xử, toà án Nam Triều sẽ áp dụng luật pháp Nam Triều được ban bố thi hành ở Trung Kì: Bộ Trung Kì pháp viện biên chế, Bộ dân luật Trung Kì, Bộ dân sự, thương sự tố tụng Trung Kì, Bộ hình luật Trung Kì, Bộ luật tố tụng hình sự Trung Kì;

Bộ luật dân sự Trung Kỳ được ban hành từng quyển suốt từ năm 1936 tới năm 1939, song vẫn được gọi là Bộ luật dân sự Trung Kỳ năm 1936 bởi vào năm đó, quyển thứ nhất của Bộ luật này được thông qua. Bộ luật này gần như chép lại Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 với một vài sửa đổi không lớn. Tuy nhiên, Bộ luật này cho thấy có sự thay đổi lớn về quan điểm pháp điển hóa so với Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 ở chỗ Bộ luật này đã không quy định về các hình thức thương hội trong chương nói về khế ước lập hội như Bộ


luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 để chuẩn bị cho sự ra đời Bộ luật Thương mại (BLTM) năm 1942. Sự thay đổi này khiến cho Bộ luật này càng gần gũi với Bộ luật dân sự Pháp.

Ở Bắc Kì (trừ hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng) là đất bảo hộ nên tại các toà án Nam Triều ở đây cũng áp dụng luật pháp Nam Triều đã được ban bố thi hành ở Bắc Kì: Bộ Bắc Kì pháp viện biên chế, Bộ dân luật Bắc Kì, Bộ dân sự, thương sự tố tụng Bắc Kì, Bộ hình luật Bắc Kì, Bộ hình sự tố tụng Bắc Kì.

Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 được ban hành bởi Thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ đã xâm phạm vào quyền lập pháp của Việt Nam, theo Vũ Văn Mẫu, vì Điều ước bảo hộ mà vua Tự Đức ký với Pháp ngày 06/06/1884 (tại Điều 10 và Điều 16) quy định Việt Nam vẫn có toàn quyền lập pháp, và viên Khâm sai và Thống sứ chỉ có quyền hành chính chứ không có quyền lập pháp.

Bộ dân luật Bắc Kì 1931 được các nhà làm luật xác định xây dựng theo đúng phương châm được ghi trong tờ trình của Hội đồng biên tập bản dự thảo Bộ Dân luật cho các tòa Nam án Bắc Kì:

“Trong việc biên tập luật lệ này, đại khái chú ý không xâm phạm đến những chế độ cốt yếu của xã hội Việt Nam, mà lại châm chước cho thích hợp với phong tục cùng trình độ hiện thời của người dân An Nam…”

Bởi thế nên bản dự thảo Bộ Dân luật này, đã châm chước hiện tình phong tục do Hội đồng khảo sát tục lệ đã sưu tập, nhất là thuộc về chế độ gia đình cùng luật lệ thừa tự. Còn những điều cổ lệ cổ tục không nói đến hoặc mập mờ không được chắc chắn, thời châm chước theo Dân luật Đại pháp.

Từ đó có thể thấy rằng nguyên tắc xây dựng cơ bản nhất của Bộ luật này chính là việc là việc kế thừa nhiều quy định của Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long, tiếp thu không ít về kĩ thuật làm luật, cơ cấu bộ luật, hình thức pháp lí và một số nội dung của Bộ luật dân sự Napôlêông của Pháp. Điều này tạo nên nét đặc trưng cơ bản của bộ dân luật Bắc Kì so với hai bộ luật còn lại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/05/2022