là bộ Dân luật Trung Kì và Bộ luật giản yếu Nam Kì ra đời trong cùng thời điểm. Bởi thực chất Bộ luật Giản yếu Nam Kỳ đã sao chép một cách máy móc Bộ luật dân sự Napoleon của Pháp nên không phản ánh thực trạng xã hội Việt Nam và những phong tục truyền thống của người Việt, do vậy nhiều điều khoản không phù hợp với tình hình đất nước . Còn Bộ luật dân sự Trung Kỳ ban hành sau cùng, đã sao chép Bộ Dân luật Bắc Kỳ và có sửa đổi bổ sung một số điều. Còn bộ Dân luật Bắc Kỳ đã bước đầu phản ảnh các tục tệ truyền thống của người Việt Nam, và có những quy định đặc thù khác với luật các nước phương Tây và Trung Quốc.
Nguyên nhân chính tạo nên sự kết hợp tư tưởng pháp luật phương Tây và tư tưởng pháp luật truyền thống Việt Nam trong Bộ dân luật Bắc Kì 1931 chính là từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước, khi Pháp đã đặt được ách đô hộ trên đất nước ta và xây dựng hệ thống pháp luật để dễ bề cai trị. Quá trình du nhập pháp luật phương Tây vào Việt Nam theo đoàn quân viễn chinh Pháp từ cuối thế kỷ thứ 19 lại là một quá trình cưỡng bức. Và quá trình đó đã mang theo nhiều tư tưởng và quy tắc pháp lý tiến bộ mang tính dân chủ, nhân văn của phương Tây áp dụng vào việc xây dựng luật pháp ở Việt Nam. Bản chất đằng sau sự kết hợp đó chính là sự giao thoa, tiếp biến về văn hóa chính trị pháp lý.
Luật pháp chính là một khía cạnh, một hiện tượng văn hóa theo cách gọi của ngành văn hóa học. Và văn hóa chính trị pháp lý cũng đi theo quy luật chung của các khía cạnh văn hóa khác, đó là có sự giao lưu tiếp biến để có nhiều sự biến đổi phù hợp với không gian và thời gian trong từng hoàn cảnh đất nước cụ thể.
Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng. Ở đó
có sự kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến Bộ hơn. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn đặt mỗi dân tộc phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại nhập".
Vậy thì việc kế thừa các giá trị văn hóa diễn ra như thế nào?
Diễn biến của việc kế thừa văn hóa là một quá trình vô cùng phức tạp. Tính đến nay, có khá nhiều lý luận liên quan đến diễn biến của việc kế thừa văn hóa.
Truyền bá văn hóa là chỉ hiện tượng văn hóa được phổ biến rộng rãi thông qua những mối liên hệ, giao lưu của nhân loại trên các lĩnh vực thương nghiệp, chiến tranh và di cư… Chúng ta biết rằng, các dân tộc khác nhau vẫn có một số đặc tính chung, họ có điều kiện sinh hoạt chung, có năng lực thích ứng với hoàn cảnh, tuy phân bố trên các khu vực không có liên hệ với nhau vẫn có thể sáng tạo ra văn hóa tương tự. Nhưng, những phát minh sáng tạo của nhân loại, xét đến cùng không phải xuất hiện một cách dễ dàng. Với việc mô phỏng lẫn nhau, phát minh sáng tạo là rất khó khan. Vả lại trong các hình thức giao lưu của nhân loại, những cuộc di cư và những cuộc chiến tranh cướp đoạt thường diễn ra. Chính điều này đã làm xuất hiện hiện tượng truyền bá văn hóa một cách tất yếu. Bởi vậy trong quá trình diễn biến, kế thừa văn hóa, việc truyền bá và mượn dùng văn hóa có tác dụng rất quan trọng. Căn cứ vào khu vực, họ chia toàn Bộ văn hóa nhân loại thành một số vùng văn hóa. Sau đó, lại phân ra thành Nền văn minh gốc như văn minh Trung Quốc, Ấn độ, Hy Lạp- La Mã và nền văn minh ảnh hưởng. Sự hình thành nền văn minh ảnh hưởng là kết quả của việc truyền bá của nền văn minh gốc. Lấy ngay khu vực Đông Á để xét: Không thể nghi ngờ, văn hóa Trung Quốc đã có ảnh hưởng nhất định đối với văn hóa Triều Tiên, Nhật Bản, Lào, Việt Nam, Campuchia.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 - 1
- Đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 - 2
- Đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 - 4
- Đặc trưng cơ bản của Bộ dân luật Bắc Kì 1931 - 5
Xem toàn bộ 45 trang tài liệu này.
Hấp thu văn hóa là hiện tượng xảy ra ngay sau khi truyền bá văn hóa. Khi một nền văn hóa ngoại lai được tiếp nhận vào khu vực nào đó, tất nhiên sẽ dẫn đến sự phản ứng của văn hóa bản địa. Hai nền văn hóa, sau khi trải qua những xung đột gay gắt, kết cấu của chúng không còn giữ nguyên ở trạng thái ban đầu. Giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại lai xuất hiện trạng thái thẩm thấu lẫn nhau với những ranh giới mờ nhạt, cuối cùng trải qua sự điều chỉnh hữu thức và vô thức của toàn xã hội, một nền văn hóa mới – tổng hợp ra đời, không phải văn hóa bản địa cũng chẳng phải văn hóa ngoại lai, lại vừa là văn hóa bản địa vừa là văn hóa ngoại lai. Từ đó có thể thấy, một quá trình hấp thu văn hóa hoàn chỉnh phải trải qua bốn giai đoạn lớn là truyền bá văn hóa, xung đột văn hóa, dung hợp văn hóa và đổi mới văn hóa.
Lịch sử đã chứng kiến nhiều sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài ở tất cả các châu lục. Chẳng hạn, Bộ luật dân sự Napoleon 1804 của người Pháp đã được phát triển từ sự vay mượn nhiều quy tắc pháp lý của luật La mã (Roman law) để rồi sau đó, nhiều nước châu Âu lại vay mượn Bộ luật nổi tiếng này để xây dựng hệ thống pháp luật dân sự của mình [38, tr.98-111]. Trong thế kỷ 18-19, pháp luật châu Âu đã theo các đoàn quân viễn chinh của đế quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan đến “cắm rễ” ở các châu lục khác. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi mà hầu hết các thuộc địa đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật châu Âu. Hệ thống pháp luật kiểu Anh (English law) đã trở thành hình mẫu pháp luật của các thuộc địa Anh như: Mỹ, Úc, Singgapor, Ấn Độ,… để có hệ thống common law (thông luật) như hiện nay. Những cuộc xâm lược, chiếm đóng đã đưa đến sự cấy ghép pháp luật cưỡng bức vào quốc gia tiếp nhận.
Song, thế giới cũng chứng kiến những sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài một cách tự nguyện để phát triển. Nhật Bản là một ví dụ điển hình về sự vay mượn rất thành công pháp luật nước ngoài. Từ thời Minh Trị duy tân cuối
thế kỷ 19, người Nhật đã học tập và vay mượn pháp luật của người Pháp, người Đức, người Mỹ. Chúng ta có thể thấy “hình dáng” truyền thống pháp luật của cả civil law (dân luật) và common law (thông luật) của Pháp, Đức, Hoa Kỳ trong hệ thống pháp luật hiện hành của Nhật Bản. Sự tiếp nhận pháp luật thành công của người Nhật được coi là một trong các yếu tố tạo nên sự phát triển thần kỳ của đất nước này trong hơn một thế kỷ qua.
Nếu văn hoá pháp lý là những giá trị tốt đẹp mà pháp luật tạo ra từ quá trình đấu tranh sinh tồn và phát triển của con người và được chọn lọc qua thời gian thì ở Việt nam, văn hoá pháp lý gắn liền với với quá trình hình thành, phát triển và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống mang đặc sắc Việt nam. Trong quá trình hội nhập và phát triển, văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để chúng ta hoà nhập mà không bị hoà tan, vừa bảo tồn được các giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hoá thế giới để hình thành một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII đã xác định: “Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương… biên thành nguồn nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển”. Sự hình thành của các yếu tố văn hoá, trong đó có văn hoá pháp lý ra trong thời gian rất dài và phức tạp với cả những yếu tố khách quan và chủ quan.
Dân tộc Việt nam ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự hình thành của nền văn minh sông Hồng với đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp và canh tác lúa nước là chủ yếu. Để tồn tại và phát triển, người Việt cổ đã lựa chọn những yếu tố có lợi và tìm cách thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt và qua đó tạo ra sắc thái riêng trong các hoạt động sinh hoạt sản xuất, chiến đấu, tín ngưỡng… hình thành nên truyền thống của người Việt. Kể cả sau này, trong sự nghiệp mở mang đất nước về phía nam, người Việt vẫn mang theo những yếu tố văn hoá truyền thống này.
Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam đã chứng kiến những sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài quy mô lớn, khi bị cưỡng ép, khi thì tự nguyện. Trước hết, là sự tiếp nhận pháp luật Trung Hoa trong lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau một ngàn năm bị cai trị bởi người láng giềng khổng lồ có nền văn minh lâu đời, việc tiếp nhận pháp luật phong kiến Trung Hoa, hệ tư tưởng và các quy tắc pháp luật Trung Hoa vào Việt Nam của các triều đại phong kiến nước ta cũng là điều dễ hiểu [29, tr.3-16].
Cha ông chúng ta đã học lấy cái hay, gạn cái dở và sáng tạo thêm để làm cho sự tiếp nhận đó phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức của nhà Lê, một bộ luật đậm đà bản sắc Việt Nam, được các nhà nghiên cứu nước ngoài đánh giá cao, đã được thiết kế khác với người Trung Quốc. Có 6 chương trong tổng số 13 chương của nó khác với luật Trung Hoa, và chỉ có 314 trong tổng số 722 điều của bộ luật này được tiếp nhận và cấy ghép từ bộ luật nhà Đường và nhà Minh [24, tr.3]. Sự vay mượn pháp luật phong kiến và lý thuyết cai trị của người Trung Quốc để xây dựng đất nước của cha ông ta là một sự lựa chọn tỉnh táo và rất khoa học. Bởi lẽ, gần như cả thế giới đều phải thừa nhận rằng, nền văn minh Trung Hoa đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử và có nhiều tính trội, tính ưu việt so với nhiều quốc gia khác.
Sự tiếp nhận đó là một yếu tố giúp các triều đại phong kiến Việt Nam lớn mạnh, đủ sức đánh bại các cuộc xâm lăng của chính người Trung Hoa và mở mang bờ cõi xuống phía nam.
Luật pháp Việt Nam, qua quá trình biến đổi cũng đã có sự hấp thu những nền văn hóa pháp luật lớn ở trên thế giới.
Đó là sự học tập tiếp thu phương pháp làm luật và các chế định pháp luật nổi tiếng từ những Bộ luật lớn của Trung Quốc. Như sự học tập rất sáng tạo của Đại Việt ở thời kì nhà Hậu Lê với Bộ “Quốc Triều Hình Luật” từ Bộ “Đường Luật sớ nghị” thời kì nhà Đường ở Trung Quốc. Hay là sự tiếp thu
từ Bộ “Đại Thanh luật lệ” thời kì nhà Thanh để làm nên Bộ luật “Hoàng Việt luật lệ” ở thời kì nhà Nguyễn. Sự học tập này, qua truyền thống lâu dài, kết hợp với cơ sở tư tưởng “nội sinh” trong văn hóa dân tộc như: tư tưởng yêu nước và tư tưởng pháp lí làng xã đã khiến văn hóa chính trị pháp lí Trung Quốc khi vào Việt Nam không phải là sự học tập một cách y nguyên, sao chép mà là sự tiếp thu chọn lọc và sáng tạo. Tình yêu nước và truyền thống tư tưởng làng xã đã trở thành những chất khúc xạ để bất kì tư tưởng ngoại lai nào vào Việt Nam cũng bị biến đổi cho phù hợp với văn hóa chính trị pháp của nước ta. Vì vậy dần lâu đời, tư tưởng chính trị pháp lí của Trung Quốc được tiếp thu, biến đổi cho phù hợp với người Việt, qua hàng nghìn năm trở thành văn hóa chính trị pháp lí của Việt nam mà vẫn mang rất nhiều nét riêng biệt của nó.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban hành pháp luật.
Trong đó, các Bộ luật: Quốc triều Hình luật (thời Trần) và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là Bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những Bộ luật phong kiến tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX).
Thời Lê (hay còn gọi là thời Hậu Lê, bao gồm cả giai đoạn Lê sơ và Lê Trung Hưng – là một trong những thời kì có vị trí đặc biệt trong lịch sử hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Triều Lê là triều đại có lịch sử tồn tại lâu dài trong lịch sử. Trong thời gian đó, triều Lê đã trải qua biết bao thăng trầm và thay đổi về chính trị.
Theo các cứ liệu lịch sử, trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Hình thư là Bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Năm 1042, Lý Thái Tông sai quan trung thư san định lệnh, châm chước những điều thời thế thông dụng, xếp thành môn loại, biên rõ điều mục, làm thành riêng quyển Hình thư một triều đại, để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện [31, tr.269, 270].
Việc ban hành Bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc [12, tr.73], nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, Bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế... Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, Bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp [32, tr.272-273].
Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn ra Bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) [32, tr.361]. Về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, Bộ luật Hình thư của thời Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành Bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam.
Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức), được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội (hiệu A.341), đã được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm 1991, thì Bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những quy định chung, Bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng... Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam” [25, tr.1]. Được ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Quốc triều hình luật không chỉ là Bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII [33, tr.159].
Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một Bộ luật mới. Năm 1815, Bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về