Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ mắc hen là 4,3%, mắc hen trên lâm sàng là 4,5% và đang bị khò khè là 8,6%, sự khác biệt về tỉ lệ mắc hen giữa các quốc gia lên tới 21 lần: ở Úc tỉ lệ là 20,96% trong khi ở Trung Quốc chỉ là 0,19% [109] . Tỉ lệ mắc hen ở người lớn cao trên 10% tập trung ở khu vực Nam Mĩ, Úc và một số nước châu Âu, trong khi đó ở khu vực châu Á, châu Phi và Bắc Mĩ có rất ít số liệu về tỉ lệ này. Tỉ lệ đang bị khò khè cao trên 20% tập trung chủ yếu ở Châu Úc, Mĩ và một số nước thuộc châu Âu trong đó có Anh. Theo ước tính của TCYTTG, Việt Nam thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương là khu vực có tỉ lệ mắc hen chung vào khoảng 5,85% [109].
1.1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc hen
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh các yếu tố bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc hen.
- Các yếu tố bên ngoài
+ Yếu tố môi trường: các yếu tố môi trường cũng được chia thành 2 loại là yếu tố môi trường bên ngoài nhà và yếu tố môi trường bên trong nhà.
Ở Châu Á, Gary Wong cho rằng yếu tố môi trường và chế độ ăn có thể đã ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc hen của trẻ em Trung Quốc vì khi so sánh tỉ lệ đang khò khè và hen ở trẻ 13-14 tuổi tại 3 địa điểm của Trung Quốc ông thấy tỉ lệ này ở Hồng Kông cao hơn so với Bắc Kinh và Quảng Châu [115].
Hong-Yu Wang đã chứng minh môi trường sống là nguyên nhân gây ra sự khác biệt về tỉ lệ mắc khò khè giữa các vùng khi thấy những trẻ Trung Quốc sống ở Vancouver, Canada có tỉ lệ mắc hen tăng theo thời gian định cư tại đây [112]. El Sharif cũng xác nhận, tỉ lệ mắc hen ở trẻ em sống trong trại tị nạn ở Palesstine cao hơn những trẻ sống ở các làng hoặc thành phố lân cận chứng tỏ môi trường đã có ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc hen ở trẻ [54].
Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố môi trường trong nhà như nấm mốc, côn trùng, khói thuốc lá, các vật liệu trải nền nhà bằng nhựa nhiều
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc điểm dịch tễ học bệnh hen phế quản ở trẻ em 13-14 tuổi và hiệu quả can thiệp bằng giáo dục sức khỏe ở hai quận của Hà Nội - 1
- Điều Trị Hen: Đã Có Rất Nhiều Hội Thảo Quốc Tế Được Tổ Chức Để Đi Đến Thống Nhất Một Phác Đồ Điều Trị Hen. Theo Gina Điều Trị Hen Cần
- Vai Trò Của Giáo Dục Sức Khỏe Trong Chiến Lược Phòng Chống Hen
- Cỡ Mẫu Và Kĩ Thuật Chọn Mẫu Nghiên Cứu Mục Tiêu 1
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguy cơ mắc bệnh hen ở trẻ tăng gấp 1,76 – 2,09 lần nếu trẻ có tiếp xúc với nấm mốc [66], tăng 2,43 lần ở những người sử dụng chất liệu nhựa để dán lên tường nhà [69], tăng cao gấp nhiều lần ở những trẻ có tiếp xúc với gián so với những trẻ khác [81]. Nguy cơ mắc hen cũng cao gấp 3,5 lần nếu trẻ sinh ra từ những bà mẹ có hút thuốc lá khi mang thai vào 3 tháng cuối [40].
+ Nghề nghiệp: những nghề như nghề nhựa, cao su, gỗ, giấy, dệt, phòng thí nghiệm, kho hay lau dọn cũng làm tăng nguy cơ mắc hen cho các công nhân và những người làm tại đây [70].
- Các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc bệnh hen
+ Giới tính: nhiều nghiên cứu về hen ở trẻ em đều ghi nhận tỉ lệ mắc khò khè và hen ở nam cao hơn nữ [78;97] [98].
+ Cân nặng: có khoảng 2/3 người Mĩ trưởng thành bị thừa cân béo phì, trong số này khoảng 12% người bị mắc hen trong khi với những người có cân nặng bình thường tỉ lệ mắc hen chỉ là 6%. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy sau khoảng thời gian 1 năm theo dõi những người có chỉ số BMI ≥25 có nguy cơ mắc bệnh hen cao gấp 1,51 lần so với những người có cân nặng bình thường [35;38].
+ Cơ địa dị ứng: trẻ mà cha mẹ có cơ địa dị ứng có nguy cơ mắc hen cao gấp 3,29 lần so với những trẻ khác [66].
1.1.1.3 Xu hướng mắc hen
Có sự khác nhau về xu hướng mắc hen ở trẻ em giữa các khu vực trên trên thế giới. Tại Mĩ theo các số liệu về tỉ lệ mắc bệnh hen của Trung tâm kiểm soát và phòng chống bệnh thì năm 2001 tỉ lệ mắc hen là 7,3% đã tăng lên 8,4% vào năm 2010, tương đương 25,7 triệu người Mĩ mắc bệnh hen trong đó có khoảng 7 triệu trẻ em [26]. Xu hướng tăng tỉ lệ mắc hen tiếp tục được ghi nhận ở Mĩ vào những năm sau đó, năm 2010 khoảng 1/14 người dân
Mĩ mắc hen thì vào năm 2011 con số này là 1/12, đặc biệt Mĩ là quốc gia đã xác định nhóm người có tỉ lệ mắc hen cao nhất là trẻ em và phụ nữ [42]. Các quốc gia phát triển thuộc châu Âu như Phần Lan, Thụy Điển, Niu Di Lân, Úc, Anh đều báo cáo tỉ lệ mắc hen đang tăng lên [28], tương tự như vậy ở châu Á, cả Hồng Kông, Singapore, Bangkok, Thái lan tỉ lệ khò khè và hen đều tăng.
Theo tác giả Beggs, nhiều nơi trên thế giới ghi nhận có sự tăng tỉ lệ mắc bệnh hen theo thời gian, nguyên nhân được cho là do thay đổi về môi trường và lối sống, tuy nhiên tác giả cho rằng sự thay đổi khí hậu do tác động bởi con người cũng có thể là một yếu tố có ảnh hưởng đến xu hướng mắc hen tại một số khu vực trên thế giới [33].
1.1.1.4 Tỉ lệ mới mắc
Cho đến hiện nay vẫn chưa có cách nào để đo lường được chính xác tỉ lệ mới mắc của bệnh hen [87] do vậy các số liệu về tỉ lệ mới mắc của bệnh hen mới chỉ có trong các báo cáo từ sau năm 2000 và các số liệu thu thập được cũng chỉ có ở một số khu vực trên thế giới. Có 2 phương pháp chủ yếu để xác định các ca bệnh hen trong các nghiên cứu tỉ lệ mới mắc, cách thứ nhất là dựa vào phỏng vấn người bệnh về triệu chứng khò khè [37;63] hoặc đã được bác sĩ chẩn đoán hen [83] và cách thứ hai là dựa vào hồ sơ bệnh án để xác định số trường hợp bệnh hen đã được các thày thuốc chẩn đoán [59;96;101;106].
- Tỉ lệ mới mắc hen qua các nghiên cứu thu thập kết quả khám bệnh từ hồ sơ bệnh án của các thày thuốc như sau:
+ Châu Âu: tỉ lệ mới mắc hen ở trẻ em và người trưởng thành của Anh vẫn rất cao (136,6/10.000/năm) và trẻ em ở Anh có xu hướng mắc nhiều bệnh dị ứng như hen, chàm viêm mũi dị ứng cùng lúc [96]. Ở Bồ Đào Nha tỉ lệ mới mắc chung là 2,02/1000 người/năm [106].
+ Châu Mĩ: một nghiên cứu ở Canada cho thấy tỉ lệ mới mắc hen ở 2 khu vực Ontario và Simcoe Muskoka là 6,96 và 5,6/1000/năm [59;103]. Theo số liệu thống kê trên toàn nước Mĩ thì tỉ lệ mới mắc hen là 3,8/1000 người/năm còn tỉ lệ hen tái phát là 4,6/1000 người/năm, mùa thu và đông là thời điểm có tỉ lệ mới mắc hen cao nhất trong năm [101].
- Tỉ lệ mới mắc hen qua các nghiên cứu bằng phương pháp phỏng vấn:
+ Sử dụng mẫu phiếu phỏng vấn của ISAAC để xác định ca bệnh hen, nghiên cứu được tiến hành ở Thụy Điển cho thấy tỉ mới mắc hen của thiếu niên khu vực bắc Thụy Điển là 0,6-1,3/1000 người/năm [63]. Theo Broms các yếu tố nguy cơ phát triển bệnh hen ở trẻ em lứa tuổi tiền học đường ở nước này là dị ứng thức ăn, viêm mũi dị ứng, biểu hiện khò khè, đã từng bị hen, cha mẹ bị viêm mũi dị ứng, cha mẹ bị hen và eczema [37].
+ Nghiên cứu tại Ý và Phần Lan thấy nguy cơ mắc hen giảm khi tuổi cao hơn [75].
1.1.1.5 Tỉ lệ tử vong do hen
Trong khoảng thời gian từ 1980 – 1993, tỉ lệ tử vong ở Mĩ là 1,7- 3,7/100.000 dân, nhóm trẻ người da đen có tỉ lệ tử vong cao hơn da trắng. Tử vong ngoại viện do hen ở Mĩ đã tăng 23,3% năm 1990 lên 29,4% năm 2001 [84]. Năm 2000 ở Mĩ tử vong trong số bệnh nhân nhập viện vì hen là 0,5% và có tới 1/3 các ca tử vong ở bệnh nhân hen là các trường hợp nhập viện vì hen nặng [30]. Năm 2005 tử vong do hen ở trẻ em Mĩ là 2,3/1 triệu dân [87]. Tại Thái Lan tỉ lệ tử vong do hen cũng tăng so với trước [48]. Tuy nhiên gần đây cũng đã xuất hiện xu hướng giảm tỉ lệ tử vong do hen ở một số khu vực trên thế giới, điều này được cho là nhờ tăng sử dụng corticoides như Thụy sĩ [34], Bồ Đào Nha [86], Tây ban Nha [62], Nhật Bản [68].
1.1.2 Dịch tễ học hen phế quản ở Việt Nam
Ở Việt Nam cho đến nay các số liệu về tỉ lệ mắc và tử vong do hen vẫn còn khá ít. Tỉ lệ mắc hen và các triệu chứng của bệnh hen qua một số nghiên cứu của các tác giả Việt Nam như sau:
- Năm 2003 Phạm Lê Tuấn công bố kết quả nghiên cứu bệnh hen ở học sinh Hà Nội bằng cách khám lâm sàng và làm xét nghiệm test lẩy da kết quả tỉ lệ mắc hen phế quản của trẻ nội thành là 12,56%, ngoại thành là 7,52% [23].
- Các nghiên cứu sau đó ở nước ta đều được điều tra bằng mẫu phiếu phỏng vấn:
+ Ở Hà Nội năm 2005 sử dụng mẫu phiếu phỏng vấn của ISAAC để điều tra tỉ lệ mắc khò khè ở trẻ em của hai trường tiểu học nội thành Hà Nội (lứa tuổi 5-11 tuổi) tác giả Nga NN thấy tỉ lệ trẻ đã từng bị khò khè là 29,1% [88]. Năm 2010 tỉ lệ đang khò khè ở trẻ 13-14 tuổi tại huyện Thanh Trì Hà Nội là 15,1% trong khi tỉ lệ trẻ được bác sĩ chẩn đoán hen chỉ là 2,6% [7].
+ Ở Đà Lạt năm 2004 Sy DQ phỏng vấn người dân sống ở đây kết quả tỉ lệ trẻ 5-15 tuổi có biểu hiện hen và triệu chứng giống hen là 3,4% [108].
+ Khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Huỳnh Công Thanh phỏng vấn 940 cha mẹ học sinh lớp 1-2 của tỉnh Tiền Giang vào năm 2007 kết quả tỉ lệ trẻ đang bị khò khè là 9%, được bác sĩ chẩn đoán hen là 2,2% [19]. Cũng năm đó tại cần Thơ số trẻ 13-14 tuổi đang bị khò khè chiếm tỉ lệ là 5%, đã được chẩn đoán hen là 1,4% [8].
+ Trên phạm vi toàn quốc, năm 2010 nghiên cứu xác định độ lưu hành hen của người trưởng thành từ 16 đến trên 80 tuổi tại 7 vùng sinh thái của Việt Nam sử dụng phương pháp phỏng vấn sàng lọc theo mẫu phiếu phỏng vấn của ECRHS và thăm khám lâm sàng nội khoa. Kết quả tỉ lệ mắc hen của người trưởng thành Việt Nam là 4,1%; nam mắc bệnh cao hơn nữ; địa phương có tỉ lệ mắc hen cao nhất là Nghệ An 7,65% và thấp nhất là Bình dương 1,51%,
như vậy có sự khác biệt về tỉ lệ mắc hen giữa các vùng khác nhau của Việt Nam [9].
Hiện chưa có các nghiên cứu về giai đoạn III của ISAAC và xác định tỉ lệ mới mắc hen được công bố do vậy chúng ta chưa có thông tin về xu hướng mắc bệnh hen ở Việt Nam.
Về tỉ lệ tử vong do hen, theo kết quả điều tra năm 2010 thì tỉ lệ tử vong do hen giai đoạn 2005-2009 ở Việt Nam là 3,78 trường hợp/100.000 dân và tại tất cả các tỉnh thành phố ở nước ta tỉ lệ tử vong do hen đang có xu hướng tăng dần [12].
Với những đặc điểm dịch tễ học của bệnh hen như chúng ta biết có thể thấy bệnh hen thực sự là gánh nặng kinh tế của mỗi quốc gia. Tại Mĩ hàng năm chi phí trực tiếp để điều trị bệnh hen là khoảng 50 tỉ đô la và chi phí gián tiếp do phải nghỉ học và nghỉ làm vì hen là khoảng 56 tỉ đô la [43]. Ở Việt Nam, những số liệu này trên phạm vi cả nước cũng chưa được công bố, tuy nhiên với kết quả thu được về tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do hen phế quản mà chúng ta mới có vào năm 2010 có thể phỏng đoán chi phí cho điều trị bệnh hen ở nước ta không nhỏ.
1.2. Bệnh hen phế quản và triệu chứng khò khè
1.2.1 Bệnh hen phế quản
1.2.1.1 Định nghĩa hen theo GINA: Hen là một bệnh viêm mạn tính đưởng thở, với sự tham gia của nhiều loại tế bào và thành phần tế bào, làm tăng phản ứng đường thở, xuất hiện các cơn ho, khò khè, nặng ngực và khó thở tái phát, nặng hơn vào ban đêm, biến đổi theo đợt, có thể hồi phục tự nhiên hoặc do dùng thuốc [60].
1.2.1.2 Cơ chế bệnh sinh của hen: có 3 quá trình bệnh lý đáng chú ý nhất trong cơ chế bệnh sinh của hen phế quản đó là [60]:
Viêm mạn tính đường thở
sau:
Co thắt phế quản
Gia tăng tính phản ứng phế quản
Diễn biến của quá trình bệnh lý trong hen phế quản được mô tả như
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TỪ MÔI TRƯỜNG
VIÊM
TĂNG ĐÁP ỨNG PHẾ QUẢN
CO THẮT PHẾ QUẢN
TRIỆU CHỨNG BỆNH HEN
Hình 1.3: sơ đồ diễn biến quá trình bệnh lý của bệnh hen phế quản
Quá trình viêm với sự tham gia của nhiều tế bào viêm như đại thực bào, dưỡng bào, bạch cầu ưa axit, bạch cầu trung tính, các tế bào biểu mô, tế bào nội mô, các bạch cầu đơn nhân, tương bào. Các tế bào viêm giải phóng ra nhiều thành phần tế bào, trong đó đáng chú ý là các cytokines của đại thực bào và tế bào lympho B [60].
1.2.1.3 Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây hen
Trong số các yếu tố nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây hen thì một số là yếu tố liên quan đến nguyên nhân gây bệnh và một số là yếu tố làm bùng phát cơn hen, tuy nhiên cũng có những yếu tố lại đóng cả 2 vai trò trên. Do vậy, có thể chia các yếu tố nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây hen thành hai loại là các yếu tố chủ quan và các yếu tố môi trường… [60].
- Các yếu tố chủ quan
+ Yếu tố gen: Cho đến hiện nay nhiều nghiên cứu chỉ ra có nhiều gen cùng tham gia vào cơ chế bệnh sinh của hen, mặc dù hiện nay vẫn chưa xác định được các gen đặc hiệu gây hen tuy nhiên khi nghiên cứu về gia đình của những người mắc bệnh hen một số tác giả nhận thấy có đến 50-60% các trường hợp bị hen có liên quan đến yếu tố di truyền. Nếu bố hoặc mẹ bị hen thì nguy cơ mắc hen ở con là 25%, nếu cả bố và mẹ bị hen thì nguy cơ này tăng gấp 2 lần.
+ Béo phì: Được cho là một yếu tố nguy cơ gây hen, có thể chất trung gian hóa học như leptons đã có ảnh hưởng đến chức năng của đường dẫn khí và làm hen có thể phát triển ở những người bệnh béo phì.
+ Yếu tố giới: Ở trẻ em tỉ lệ mắc bệnh hen của nam cao gấp 2 lần nữ, khi trẻ càng lớn tỉ lệ mắc bệnh ở nữ có xu hướng tăng lên, đến tuổi trường thành tỉ lệ nữ mắc bệnh lại cao hơn nam. Sự khác biệt về tỉ lệ mắc bệnh hen liên quan đến giới tính cũng chưa được lí giải tuy nhiên có thể do kích thước của phổi ở hai giới có sự khác nhau.
+ Tuổi: Hen có thể xuất hiện bất cứ lứa tuổi nào, nhưng khoảng 80% hen trẻ em xuất hiện trước 5 tuổi.
- Yếu tố môi trường
+ Dị nguyên: Dị nguyên là những chất có bản chất kháng nguyên hoặc không có bản chất kháng nguyên nhưng khi vào cơ thể lại có khả năng kích thích cơ