Đặc Điểm Cơ Sở Pháp Lý Để Ngân Hàng Nhà Nước Quản Lý Thị Trường Vàng

kinh doanh và các trường hợp thu hồi giấy phép được ban hành bởi cơ quan có thẩm quyền.

Hoạt động cấp phép không chỉ đơn thuần là thực thi quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước khi cho phép một chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh. Cấp phép còn là sự ghi nhận của cơ quan quản lý về khả năng đáp ứng những điều kiện khắt khe của pháp luật, đảm bảo về mặt pháp lý cho những giao dịch của những chủ thể được cấp phép trên thị trường. Qua đó, còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trên thị trường trước nguy cơ của rủi ro ngoài ý muốn. Hoạt động cấp phép còn bao hàm cả trường hợp giấy phép đối với từng nội dung của hoạt động kinh doanh, thường gọi là giấy phép con. Không phải trong mọi trường hợp, các chủ thể kinh doanh có thể được thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh, mà còn cần có sự phân loại rõ ràng, tùy thuộc mức độ phức tạp của từng hoạt động kinh doanh.

Thu hồi giấy phép là khả năng Ngân hàng Nhà nước bằng một biện pháp hành chính để chấm dứt hoạt động kinh doanh của một chủ thể xác định, đảm bảo cho trật tự quản lý. Trên cơ sở của quy phạm pháp luật rõ ràng, hoạt động thu hồi giấy phép nhằm loại bỏ những chủ thể kinh doanh không còn đáp ứng đủ điều kiện theo quy định, có những hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất nghiêm trọng. Trong một số trường hợp, thu hồi giấy phép còn đảm bảo thực thi chiến lược, kế hoạch đặt ra cho sự phát triển thị trường được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, phù hợp với chính sách quản lý ngoại hối khi vàng được coi là ngoại hối trong quá trình dịch chuyển, hoạt động xuất, nhập khẩu vàng cũng đòi hỏi sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Một trong những cách thức kiểm soát đem lại hiệu quả cao là thông qua giấy phép xuất, nhập khẩu vàng. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước không chỉ xác định được lưu lượng vàng để phục vụ cho những chính sách kinh tế vĩ mô mà còn quản lý chặt chẽ với

hoạt động kinh doanh vàng của đối tượng quản lý. Tuy nhiên, đây là một biện pháp quản lý mang tính hành chính, cần có cách thức triển khai phù hợp để không ảnh hưởng tới khả năng liên thông của thị trường vàng trong nước với thị trường vàng thế giới.

1.2.3. Thanh tra, kiểm tra


Theo quy định của pháp luật về thanh tra: “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành” [21, Điều 3]. Mục đích của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. [26, tr.696]

Ngân hàng Nhà nước với địa vị pháp lý là cơ quan quản lý chuyên ngành đối với thị trường vàng có thẩm quyền để sử dụng biện pháp này trong hoạt động quản lý. Thanh tra và kiểm tra là những công cụ quan trọng của quản lý nhà nước, là hoạt động mang tính chất hậu kiểm để có thể phân tích đánh theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Thanh tra, kiểm tra là sự xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trên thị trường.

Thực hiện biện pháp này, Ngân hàng Nhà nước sử dụng các báo cáo của các chủ thể kinh doanh định kỳ, hoặc theo yêu cầu khi cần thiết; kiểm tra sổ sách, tài liệu; so sánh, đối chiếu, đánh giá, xác minh… tài liệu, chứng cứ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Trong đó, kiểm tra được thực hiện một cách thường xuyên, có hệ thống; thanh tra được thực hiện theo quyết định thanh tra của cơ quan có thẩm quyền dựa trên các căn cứ:

1. Kế hoạch thanh tra;

Cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý đối với thị trường vàng ở Việt Nam và các kiến nghị pháp lý - 6

2. Theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước;

3. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;

4. Yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng [21, Điều 38].

Kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra là cơ sở của việc xử lý vi phạm. Quyết định xử lý vi phạm phải phù hợp về thẩm quyền và căn cứ pháp lý. Trong trường hợp không đủ thẩm quyền, Ngân hàng Nhà nước đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, ra các quyết định xử lý.

1.2.4. Tham gia thị trường vàng

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan phù hợp cho nhiệm vụ quản lý thị trường vàng bởi lợi thế trong việc tiếp nhận các thông tin và khả năng linh hoạt trước những diễn biến trên thị trường hơn bất cứ một cơ quan nào khác trong bộ máy của Chính phủ. Để quản lý một thị trường đầy biến động và nhạy cảm như thị trường vàng, sự bổ khuyết của những biện pháp can thiệp vào thị trường là đòi hỏi tất yếu cho bất cứ chủ thể nào được trao thẩm quyền quản lý. Tuy nhiên, tham gia như thế nào, mức độ và điều kiện cho sự can thiệp không thể được tiến hành một cách chủ quan, tùy tiện.

Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được đặt ra tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước không nằm ngoài mục tiêu vì lợi ích chung của quốc gia, không hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Theo đó, các biện pháp can thiệp vào thị trường phải hướng tới ổn định thị trường vàng trong nước và đảm bảo sự phát triển của thị trường phù hợp với định hướng chung của Chính phủ. Ổn định thị trường không đồng

nghĩa với việc cố định giá cả hàng hóa của thị trường một cách chủ quan. Ổn định thị trường là đảm bảo cho sự biến động về mặt bằng giá cả được kiểm soát và đảm bảo phù hợp với những diễn biến của nền kinh tế nói chung, phù hợp với quy luật cung – cầu. So với biện pháp cấp phép nhập khẩu vàng khi tình hình giá cả hàng hóa vàng biến động, việc Ngân hàng Nhà nước giao dịch trực tiếp với các tổ chức kinh doanh vàng sẽ tiết kiệm nhiều hơn về thời gian và chi phí. Bên cạnh đó, sự điều tiết còn nhằm định hướng cho thị trường phù hợp với định hướng chung của Chính phủ. Bởi lẽ, thị trường vàng cũng chỉ là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nói chung. Sự vận động của thị trường vàng vì thế không thể đi chệch ra khỏi sự vận động chung của nền tài chính quốc gia, và rất cần những điều chỉnh khi những dấu hiệu đầu tiên của sự chệch hướng xuất hiện. Cơ sở cho việc tham gia thị trường của Ngân hàng Nhà nước với mục tiêu này được thể hiện bởi các văn bản được Chính phủ ban hành, bao gồm: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; Các Nghị quyết của Chính phủ trong các kỳ họp thường kỳ trong năm.

Bên cạnh đó, sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước cần đảm bảo những giới hạn cơ bản khi tham gia vào thị trường vàng. Khác với các biện pháp quản lý mang tính chất hành chính, sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước đối với thị trường vàng nhằm điều tiết thị trường không dựa trên cơ sở của mệnh lệnh – thi hành. Khi thực hiện các giao dịch trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước sẽ trở thành một bên mua hoặc bán, là một bên của giao dịch dân sự. Do đó, quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng Nhà nước phát sinh từ giao dịch đó là ngang bằng với các chủ thể còn lại trên thị trường. Khả năng tham gia của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường vàng cũng vì thế cần phải tôn trọng các nguyên tắc quản lý đối với thị trường vàng như đã được đề cập ở trên. Cuối cùng, đảm bảo cho sự tham gia là hiệu quả và tăng cường tính trách nhiệm,

cần quy định trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Nhà nước như một yêu cầu bắt buộc trước Chính phủ và Quốc hội với các biện pháp can thiệp được áp dụng trên thực tế.

1.3. Đặc điểm cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý thị trường vàng

1.3.1. Quan hệ xã hội được điều chỉnh

Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với thị trường vàng làm nên đặc trưng của bộ phận pháp luật này. Trong các quan hệ xã hội đó, một bên chủ thể luôn xác định là Ngân hàng Nhà nước với tư cách cơ quan đại diện nhà nước thực hiện chức năng quản lý. Hành vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước thuộc về hoạt động quản lý chuyên ngành, phân biệt với hành vi quản lý chung thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Nhóm chủ thể thứ hai là nhóm đối tượng bị quản lý bao gồm các chủ thể tham gia thị trường vàng, bao gồm: Các chủ thể kinh doanh, nhà nhập khẩu, các trung gian của thị trường, nhà đầu tư, người tiêu dùng. Trong số đó, những chủ thể thường xuyên chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước là các chủ thể kinh doanh, các trung gian trên thị trường vàng. Các hành vi quản lý trên thị trường vàng đều hướng tới trật tự quản lý, tuy nhiên có thể chia thành những nhóm quan hệ xã hội chủ yếu sau:

- Nhóm quan hệ xã hội giữa Ngân hàng Nhà nước với các chủ thể kinh doanh vàng.

- Nhóm quan hệ xã hội giữa Ngân hàng Nhà nước với các trung gian trên thị trường vàng.

- Nhóm quan hệ xã hội giữa Ngân hàng Nhà nước (khi tham gia vào thị trường) với các chủ thể còn lại của thị trường.

Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh mà chủ yếu

giữa Ngân hàng Nhà nước với các chủ thể kinh doanh (gồm có các ngân hàng thương mại được phép và các cơ sở kinh doanh vàng khác), Ngân hàng Nhà nước có thể đồng thời tác động một cách gián tiếp tới các chủ thể còn lại trên thị trường.

1.3.2. Phương pháp điều chỉnh

Phương pháp điều chỉnh là tổng hợp những cách thức mà pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của bộ phận pháp luật làm cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý đối với thị trường vàng. Phương pháp điều chỉnh phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó.

Với lĩnh vực quản lý đối với thị trường vàng, là một nội dung quản lý hành chính nhà nước, đặc trưng rõ nét nhất của phương thức quản lý là mệnh lệnh – quyền uy. Được thể hiện trong hầu hết các mối quan hệ với đối tượng quản lý, phương pháp mệnh lệnh – quyền uy đem lại khả năng áp đặt ý chí của chủ thể quản lý là Ngân hàng Nhà nước. Quyền uy là phương tiện quan trọng để Ngân hàng Nhà nước buộc các đối tượng quản lý thực hiện theo các yêu cầu của mình.

Bên cạnh hoạt động quản lý nhà nước với tính chất bắt buộc đặc trưng, xu hướng nới rộng cách thức quản lý, chuyển giao quyền quản lý cho các tổ chức tự quản đang ngày càng phổ biến tại nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, xu hướng này còn đang ở những giai đoạn đầu tiên. Để bổ sung cho cách thức quản lý truyền thống, phương pháp điều chỉnh bình đẳng thỏa thuận cũng được áp dụng trong quan hệ của Ngân hàng Nhà nước khi tham gia các giao dịch trên thị trường.

Sự bổ sung của hai phương pháp điều chỉnh cơ bản vừa đảm bảo hoạt động quản lý hiệu quả, vừa đảm bảo khả năng điều tiết thị trường phù hợp với các chính sách phát triển chung của đất nước.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Thông qua tìm hiểu những vấn đề cơ bản về thị trường vàng và cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý đối với thị trường vàng, luận văn đưa ra một số kết luận sau:

Thứ nhất, Thị trường vàng là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán và trao đổi về vàng. Thị trường vàng bao gồm Thị trường vàng vật chất, trong đó vàng thỏi, tiền, trang sức được chuyển giao giữa các chủ thể trên thị trường; và Thị trường vàng giấy, có thể gọi là vàng chứng chỉ, trong đó bao gồm giao dịch được thực hiện với các loại chứng khoán tương ứng.

Thứ hai, thị trường vàng là một thị trường nhạy cảm, nhận được nhiều sự quan tâm và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng bao gồm: Yếu tố cung – cầu; Chính sách quản lý của Nhà nước; Chính sách tiền tệ; Các yếu tố khác như diễn biến của giá dầu thô trên thị trường quốc tế. Thị trường vàng là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nói chung và có mối liên hệ mật thiết với các bộ phận còn lại của thị trường tài chính.

Thứ ba, hoạt động quản lý Nhà nước đối với vàng là phù hợp để được trao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bởi các lý do: Vị trí pháp lý đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước; Vàng là một cấu thành quan trọng trong kho dự trữ ngoại hối chính thức do Ngân hàng Nhà nước quản lý; Mạng lưới hoạt động kinh doanh vàng vốn chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ tư, cần xác định các nguyên tắc trong hoạt động quản lý cho một thị trường vàng phát triển lành mạnh, bao gồm: Một là, tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh trên thị trường vàng; Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và người tiêu dùng trên thị trường vàng; Ba là, đảm bảo sự điều tiết của Nhà nước đối với thị trường vàng.

Thứ năm, thực hiện nhiệm vụ quản lý, Ngân hàng Nhà nước sử dụng nhiều kết hợp nhiều biện pháp quản lý: Xây dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị trường vàng; Cấp và thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng; Thanh tra, kiểm tra; và Tham gia thị trường vàng khi cần thiết

Thứ sáu: Cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý đối với thị trường vàng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mà Ngân hàng Nhà nước tham gia với tư cách cơ quan quản lý. Phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh quyền uy, được hỗ trợ bởi phương pháp bình đẳng thỏa thuận khi Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường.

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 27/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí