Các Biện Pháp Quản Lý Thị Trường Vàng Của Ngân Hàng Nhà Nước Sự Quản Lý Được Thực Hiện Bởi Chủ Thể Là Các Cơ Quan Và Nhân Viên Nhà

nhiệm vụ thay mặt chính phủ thực hiện hoạt động quản lý. Quyết định số 139- CT ngày 24/05/1989 về việc cho phép các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể, hộ kinh tế cá thể kinh doanh vàng bạc, đá quý quy định: Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm mở rộng kinh doanh vàng bạc, đá quý để đáp ứng nhu cầu của xã hội” [11, Điều 1]. Bên cạnh yếu tố lịch sử, sự cần thiết đặt thị trường vàng dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước còn xuất phát từ những lý do gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước:

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan trong bộ máy Chính phủ có vị trí pháp lý rất đặc biệt. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ” [20, Điều 2]. Với hai tư cách là Ngân hàng Trung ương và cơ quan quản lý chuyên ngành, nhiều nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương được thực hiện đan xen bởi các biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế. Không giống như các cơ quan quản lý thông thường khác, Ngân hàng Nhà nước có tư cách pháp nhân được pháp luật ghi nhận để tham gia vào các quan hệ kinh tế một cách đầy đủ. Điều đó đặc biệt quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước có thể điều tiết một cách nhanh chóng với các diễn biến phức tạp của nền kinh tế. Khi mà độ trễ của các quyết định mang tính hành chính thường ít đem lại hiệu quả, thì sự can thiệp vào thị trường một cách chủ động lại tạo cho chủ thể quản lý nhiều thuận lợi hơn. Trong tất cả các biện pháp can thiệp, Ngân hàng Nhà nước đều được xác định thực thi vì mục tiêu lợi ích chung của quốc gia, không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều đó sẽ đem lại khả năng linh hoạt cho Ngân hàng Nhà nước trong vai trò quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sự điều tiết cho một thị trường nhạy cảm như thị trường vàng.

Thứ hai, vàng là một cấu thành quan trọng trong kho dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Với vai trò là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc quản lý quỹ dự trữ ngoại hối nhằm đảm bảo về mặt giá trị cho lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế là một nhiệm vụ trọng tâm. Kiểm soát khối lượng tiền đồng Việt Nam trong lưu thông, đảm bảo khả năng thanh toán của tiền đồng Việt Nam và điều tiết lượng ngoại tệ cho nhu cầu thanh toán của nền kinh tế là những nội dung quan trọng nhất khi thực hiện chính sách này. Trên thực tế, các Ngân hàng Trung ương chính là những chủ thể tham gia rất thường xuyên trên thị trường vàng quốc tế với khối lượng giao dịch rất lớn. Với trữ lượng khổng lồ của kho dự trữ cũng như tiềm lực tài chính, Ngân hàng Nhà nước có khả năng để tạo ra một lực cung hoặc cầu đủ mạnh trong những trường hợp cần thiết để giữ ổn định thị trường, định hướng thị trường, giữ cân đối nền kinh tế hay bảo đảm lợi ích chính đáng của công dân. Cùng với địa vị pháp lý đặc biệt, việc quản lý kho dự trữ ngoại hối là một điều kiện thuận lợi tiếp theo cho Ngân hàng Nhà nước quản lý đối với thị trường vàng.

Thứ ba, mạng lưới hoạt động kinh doanh vàng hiện nay ở Việt Nam bên cạnh các cơ sở kinh doanh vàng nhỏ lẻ là các tổ chức tín dụng. Hệ thống các tổ chức tín dụng với hoạt động chủ yếu là các hoạt động ngân hàng được đặt dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong mô hình ngân hàng hai cấp của Việt Nam. Trong hoạt động của mình, các tổ chức tín dụng phải tuân thủ nghĩa vụ báo cáo với Ngân hàng Nhà nước định kỳ hàng ngày, hàng tháng, hàng năm. Nội dung của các báo cáo đem lại cho Ngân hàng Nhà nước đầy đủ các thông tin về diễn biến trên thị trường để đem lại một bức tranh tổng thể của nền kinh tế. Đặc biệt khi thị trường vàng có tính liên hệ rất cao với các thị trường tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối đều là các

đối tượng quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước khi quản lý đối với hoạt động kinh doanh trên thị trường vàng trong nước.

1.1.5. Nguyên tắc quản lý thị trường vàng

Để thực hiện tốt chức năng quản lý, pháp luật phải tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tự do kinh doanh phát triển, tạo cho mọi công dân có cơ hội kinh doanh theo pháp luật, bảo vệ các quyền sở hữu hợp pháp, các nguồn thu nhập hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cũng tạo cơ sở để Nhà nước có thể thực hiện được vai trò người điều hành nền kinh tế thị trường, hướng nó phát triển theo các mục tiêu đã định, khắc phục, hạn chế những mặt trái vốn có của nền kinh tế thị trường. Pháp luật cũng phải là công cụ để Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh, trừng trị mọi hành vi kinh doanh phi pháp, thực hiện sự công bằng trong sản xuất, phân phối. Đối với thị trường vàng, hoạt động quản lý có những yêu cầu khắt khe hơn so với các thị trường hàng hóa thông thường. Lý do của yêu cầu đó xuất phát từ đặc điểm riêng có của vàng, nhu cầu cao trong dân chúng và ảnh hưởng của việc lưu thông cũng như tích trữ vàng đối với nền kinh tế. Những yêu cầu kể trên đòi hỏi hoạt động xây dựng pháp luật phải xác định được những nguyên tắc cho hoạt động quản lý, đảm bảo tính thống nhất và toàn diện của hệ thống cơ sở pháp lý.

Nguyên tắc quản lý là những yêu cầu xuyên suốt đặt ra trong công tác quản lý thị trường. Nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động quản lý được thực hiện một cách thống nhất, kể cả khi chưa có điều khoản quy định cụ thể trước thực tiễn phát sinh. Các nguyên tắc trong hoạt động quản lý thị trường vàng phải đảm bảo tính khái quát và phù hợp với định hướng phát triển một thị trường vàng hiện đại và lành mạnh ở Việt Nam. Ở đó, các nguyên tắc sau cần được ghi nhận và tôn trọng:

Một là, tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh trên thị trường vàng. Mỗi một thị trường hàng hóa đều có quy luật vận động riêng phù hợp với đặc điểm của hàng hóa được giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên bất cứ thị trường nào xét về bản chất đều là nơi để diễn ra các giao dịch mua – bán giữa những chủ thể có nhu cầu tương ứng. Hay nói cách khác thị trường được hình thành dựa trên những nhu cầu mua – bán trao đổi hàng hóa. Vì lẽ đó, thị trường cho dù được hình thành theo cách thức như thế nào cũng cần phải tôn trọng các quan hệ giao dịch diễn ra tại thị trường. Pháp luật cần đảm bảo cho quyền tự do ý chí ấy không bị xâm hại từ bất cứ chủ thể nào, kể cả từ phía cơ quan đại diện cho Nhà nước. Thị trường vàng là một bộ phận của thị trường nói chung, là nơi diễn ra các giao dịch giữa các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Thị trường vàng trước hết được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005 đã khẳng định quyền tự do ý chí như một nguyên tắc: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vị phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tiếp đó Bộ luật này quy định cụ thể hơn Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” [4, tr.23]. Trên thị trường vàng, từ góc độ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cần phải đảm bảo cho quyền tự do mua, bán vàng và các quan hệ phái sinh xuất phát từ quyền cơ bản đó là các quyền kinh doanh, cung ứng dịch vụ về vàng.

Quyền tự do kinh doanh, dịch vụ trên thị trường vàng cũng là một trường hợp cụ thể của quyền tự do kinh doanh. Tự do kinh doanh, đơn giản được hiểu là cá nhân, doanh nghiệp được phép thực hiện những hoạt động kinh doanh mà pháp luật không cấm. Nguyên lý này từ trước đến nay vẫn được các cá nhân, doanh nghiệp hiểu như vậy và vận dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Kể cả đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, sự tôn trọng từ phía pháp luật cũng cần được thể hiện một cách rõ ràng. “Quản lý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

nhà nước không phải là giành thuận lợi cho cơ quan quản lý, mà quản lý là để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, làm ăn” là khẳng định của Thủ tướng Chính phủ [10].

Tuy nhiên, quyền tự do mua, bán, kinh doanh trên thị trường vàng cũng giống như những thị trường khác cũng có những giới hạn. Nó không giải quyết được một cách thỏa đáng những mối quan hệ xã hội phức tạp ngày nay khi mà con người sống trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà vị thế kinh tế, xã hội của mỗi người không hoàn toàn ngang bằng... [4, tr.26] Pháp luật tôn trọng thỏa thuận của các bên trong giao dịch dân sự, nhưng những giao dịch này không được xâm hại tới lợi ích cộng đồng. Đó chính là lý do của những giới hạn theo quy định của pháp luật trong các quan hệ dân sự nói chung và quyền tự do mua, bán, kinh doanh vàng nói riêng. Với một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm và có ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội cũng như chính sách kinh tế vĩ mô như kinh doanh vàng, việc phải đặt ra những giới hạn trên thị trường là điều cần thiết.

Cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý đối với thị trường vàng ở Việt Nam và các kiến nghị pháp lý - 5

Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và người tiêu dùng trên thị trường vàng. “Nhà đầu tư” là những tổ chức, cá nhân tìm kiếm lợi nhuận từ vàng, “người tiêu dùng” là những người thông qua các giao dịch mua – bán, trao đổi để sở hữu vàng không nhằm mục đích cụ thể là đầu tư. Hai nhóm đối tượng này về cơ bản có nhiều điểm tương đồng, chỉ khác ở mức độ và mục tiêu khi tham gia thị trường vàng. Chính các nhà đầu tư mới là những người làm nên phía cầu của thị trường vàng trong nước. Trên thực tế, đây là nhóm chủ thể với đa số là những người có rất ít lợi thế khi tham gia trên thị trường vàng. Họ ít có cơ hội nắm bắt thông tin đầy đủ trên thị trường, thiếu khả năng đánh giá, phân tích tổng hợp tình hình kinh tế nói chung và thị trường vàng nói riêng cùng năng lực tài chính hạn chế. Tính phức tạp của thị trường vàng đòi hỏi một cơ chế bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư

trước những nguy cơ của rủi ro không xuất phát từ các yếu tố khách quan. Những rủi ro xuất phát từ vị thế yếu của nhà đầu tư trên thị trường trong khả năng nắm bắt thông tin, quy trình, thủ tục…, những rủi ro xuất phát từ xung đột lợi ích hay những rủi ro từ các hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng tới chức năng phản ánh giá cả của thị trường là những rủi ro cần phải được loại trừ bởi công cụ pháp luật. Vì vậy, ghi nhận mục tiêu quản lý này như một nguyên tắc pháp lý cho các văn bản điều hành là một đòi hỏi cho một thị trường vàng phát triển lành mạnh.

Ba là, đảm bảo sự điều tiết của Nhà nước đối với thị trường vàng. Trong một nền kinh tế hội nhập, khi mà sự tác động từ sự vận động của kinh tế thế giới chưa bao giờ rõ nét hơn, Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là các vấn đề về các thị trường hàng hóa trong nước. Chúng ta bắt đầu phải làm quen với khái niệm nhập khẩu lạm phát và những xu hướng toàn cầu. Chính những lý do đó đã góp phần không nhỏ đến tình trạng giá vàng tăng cao và sau đó sự vận động của chính thị trường trong nước đã dẫn đến những diến biến bất thường trong nhiều năm. Khi giá vàng tăng cao ảnh hưởng của nó tác động trở lại hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung và dài hạn. Vàng đã không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Thị trường vàng với những diễn biến phức tạp của nó vì vậy cũng đòi hỏi một cơ chế điều tiết mạnh từ phía Nhà nước để đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô. Đảm bảo cho mục tiêu này được thực hiện một cách hiệu quả như một định hướng cho cả hệ thống quản lý, việc ghi nhận nó như một cơ sở pháp lý có hiệu lực cao là một yêu cầu cấp thiết cho thị trường vàng Việt Nam.

1.2. Các biện pháp quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước Sự quản lý được thực hiện bởi chủ thể là các cơ quan và nhân viên nhà

nước trên cơ sở pháp luật gọi là quản lý nhà nước [26, tr.633]. Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước được tiến hành nhằm xác lập một trật tự cho sự ổn định và phát triển xã hội theo một định hướng nhất định. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất điều hành của cơ quan trong bộ máy hành pháp. Để hiện thực hóa công tác quản lý nhà nước, các cơ quan nhà nước được trao quyền sử dụng các biện pháp tác động tới chủ thể quản lý nhằm tạo ra một trật tự nhất định. Đối với thị trường vàng, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các biện pháp quản lý cơ bản sau: Xây dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị trường vàng; Cấp và thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng; Thanh tra, kiểm tra; và Tham gia thị trường vàng khi cần thiết

1.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị trường vàng

Xây dựng chiến lược là việc xây dựng định hướng về một cấu trúc nền tảng vững chắc cho hoạt động. Lập kế hoạch là quá trình xây dựng các mục tiêu và xác định các nguồn lực để thực hiện theo định hướng chiến lược đề ra. Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch có thể nói là khâu quan trọng hàng đầu trong định hướng phát triển của thị trường vàng ở mỗi một giai đoạn. Dựa trên cơ sở đó mà các biện pháp quản lý được triển khai cụ thể và ảnh hưởng trực tiếp tới các quan hệ xã hội được điều chỉnh trên thị trường. Có thể kể đến hai xu hướng cơ bản của định hướng chiến lược là xu hướng thắt chặt và xu hướng mở rộng thị trường. Là cơ quan quản lý trực tiếp, nắm bắt thông tin đầy đủ và điều hành chung chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thực hiện nhiệm vụ xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển thị trường vàng. Tuy nhiên, để phù hợp với chính sách phát triển chung của kinh tế, xã

hội cũng như phù hợp với địa vị pháp lý, kết quả của hoạt động ấy phải được trình các cơ quan có thẩm quyền quản lý chung phê duyệt, thông qua, bao gồm có Quốc hội và Chính phủ.

Nếu chính sách khi chưa được luật pháp hóa chỉ là những cái đích mà người ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng buộc chung hay tính bắt buộc phải thực hiện, thì pháp luật lại là những chuẩn mực có giá trị pháp lý bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước [22]. Một cách khái quát nhất, xây dựng pháp luật là hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy định của pháp luật (tức là các quy phạm pháp luật) cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. [7, tr.8]. Hệ quả của công việc ấy là điều chỉnh một số loại hành vi nhất định của các chủ thể mà pháp luật hướng tới. Đối với hoạt động quản lý thị trường vàng, Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với những hành vi của các chủ thể diễn ra trên thị trường, bao gồm các chủ thể kinh doanh và nhà đầu tư.

1.2.2. Cấp và thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng


Giấy phép đối dành cho các chủ thể kinh doanh là biện pháp quản lý thuộc về nhóm biện pháp mang tính chất tiền kiểm. Khác với hoạt động kinh doanh thông thường, được quản lý, cấp phép bởi cơ quan đăng ký doanh nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Với tính chất đặc thù của hoạt động vàng, phù hợp với phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động này được xếp vào nhóm kinh doanh có điều kiện. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đánh giá tính phù hợp của doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh vàng. Quyền năng cấp, thu hồi giấy phép của chủ thể kinh doanh vàng thể hiện rõ tính quyền uy trong hoạt động quản lý. Cấp và thu hồi giấy phép phải được thực hiện trên cơ sở của những quy định minh bạch, rõ ràng về điều kiện

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 27/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí