Cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 - 15

hạn; coi đây là nhiệm vụ thường xuyên; chủ động rà soát, đánh giá tình hình gia đình tại địa phương; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể giải quyết những thách thức khó khăn về gia đình và công tác gia đình; xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong HN&GĐ; đấu tranh chống lối sống thực dụng, vị kỷ, đồi truỵ... Cán bộ, đảng viên gương mẫu chăm lo xây dựng gia đình; đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; gắn việc xây dựng gia đình với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

3.2.3.2. Tổ chức việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành hoặc ban hành các văn bản mới hướng dẫn thi hành các vấn đề liên quan đến quan hệ tài sản vợ chồng.

Đồng thời, tiến hành sưu tầm, tập hợp hóa các phong tục, tập quán, đạo đức được xem là quan trọng, có giá trị đang tồn tại trong khắp các miền của đất nước. Từ đó có phương pháp chọn lọc, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, đạo đức tốt đẹp, có tính nhân văn cao; loại trừ những phong tục, tập quán, đạo đức có hại; có những biện pháp tác động phù hợp, hiệu quả để hình thành những phong tục, tập quán, đạo đức mới phù hợp với đời sống. Qua đó, phát huy hơn nữa vai trò của phong tục, tập quán, truyền thống đạo đức đối với pháp luật và đối với đời sống xã hội.

Hơn nữa, cần theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp luật, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật; xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân gia đình.

3.2.3.3. Thực hiện cải cách tư pháp, đảm bảo có hệ thống cơ quan thực thi hiệu quả, có cơ cấu tổ chức đồng bộ, có đội ngũ cán bộ có năng lực, có cơ sở vật chất đầy đủ.

Hiện nay, cần đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp một cách toàn diện, đồng bộ để có một hệ thống cơ quan thực thi pháp luật đạt hiệu quả.

Trong cải cách tư pháp, vấn đề cốt lõi hiện nay là cải cách hệ thống Toà án nhân dân, kiện toàn các toà chuyên trách cả về thẩm quyền và về tổ chức nhân sự đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu cải cách tư pháp. Cần xem xét việc thành lập TA HN&GĐ trực thuộc TA tỉnh và TANDTC để nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực HN&GĐ, mà chủ yếu là các tranh chấp về quan hệ tài sản của vợ chồng.

Việc thành lập Toà HN&GĐ là thể hiện sự đổi mới, cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết của Đảng về việc nghiên cứu để thành lập thêm các Toà HN&GĐ trong hệ thống Toà án nhân dân (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới). Việc thành lập Tòa chuyên trách nhằm chuyên môn hoá công tác xét xử, bảo đảm cho công tác xét xử của Toà án nhân dân đúng pháp luật. Việc thành lập Toà hôn nhân gia đình thuộc cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân cũng như phù hợp với yêu cầu chung của xã hội.

Mặt khác việc thành lập Toà hôn nhân gia đình thuộc cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về cơ bản không làm tăng biên chế, việc triển khai thực hiện có thể làm được ngay bằng việc tách Toà án dân sự hiện hành thành hai Toà chuyên trách theo đúng nghĩa của nó là: Toà dân sự và Toà hôn nhân gia đình. Nghiên cứu, tham khảo mô hình của một số nước trong khu vực cho thấy họ cũng có Toà hôn nhân gia đình là một Toà chuyên trách. Vì vậy việc thành lập Toà hôn nhân gia đình thuộc cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng là đáp ứng được yêu cầu hội nhập nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta. Hơn nữa, lĩnh vực hôn nhân gia đình được điều chỉnh bởi một ngành luật độc

lập từ trước đến nay (Luật HN&GĐ) nên cần phải có Toà chuyên trách về Hôn nhân gia đình. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các điều 17, 23, 27 và 30 Luật Tổ chức Toà án nhân dân là cần thiết để tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập Toà hôn nhân gia đình thuộc cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

Công tác cải cách tư pháp trong lĩnh vực HN&GĐ còn bao gồm các hoạt động khác như: Nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo chức năng quy định trong Hiến pháp, tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; kiện toàn các tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết định của Toà án; củng cố và tăng cường các tổ chức bổ trợ tư pháp…

Việc cải cách tư pháp còn bao gồm hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh, có phẩm chất chính trị và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể. Nâng cao chất lượng của Hội thẩm nhân dân. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ, xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng tiêu cực. Các cơ quan và nhân viên tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tính dân chủ công khai đại diện cho công lý của chế độ phải thực sự trong sạch công minh.

Cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 - 15

Đồng thời, công cuộc cải cách tư pháp không chỉ là kiện toàn hệ thống cơ quan, cơ cấu tổ chức mà còn phải đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động của các cơ quan này.

3.2.3.4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật


Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là sử dụng những hình thức khác nhau tác động có tính hệ thống và thường xuyên tới ý thức của mọi

người nhằm trang bị cho họ những kiến thức pháp lý nhất định để từ đó họ có những nhận thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một "công đoạn" trong toàn bộ quy trình xây dựng - thông qua, ban hành - thực hiện, giám sát - sửa đổi, điều chỉnh pháp luật. Tại Hội nghị thảo luận Luật HN&GĐ, vấn đề này đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt". Muốn dân hiểu, dân nhớ để làm theo, trong tuyên truyền phải biết cách diễn đạt đơn giản, ngắn gọn, nhưng tuyệt đối chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý, tính cách, văn hóa của các đối tượng dân cư từng khu vực, từng miền trên đất nước.

Vì tỷ lệ người hiện đang có vợ, chồng là rất cao. Đây là số lượng đông, đa số bị điều chỉnh bởi pháp luật, cần phải nắm pháp luật. Vì vậy, Nhà nước có chính sách, biện pháp để tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về HN&GĐ, mà đặc biệt là pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng cho những đối tượng này. Đồng thời, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ được thực hiện với người đang có vợ hoặc chồng mà còn phải tuyên truyền, phổ biến đến cả thế hệ thanh niên, những người trẻ tuổi chưa lập gia đình.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ có tác động làm thay đổi nhận thức của người dân về quan hệ tài sản của vợ chồng, đặc biệt là về bình đẳng giới; phê phán quan niệm PK lạc hậu và lên án mọi sự kỳ thị, phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Trên cơ sở đó, xây dựng quan niệm đúng đắn về sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Đồng thời, công tác này sẽ có ý nghĩa thiết thực nhằm tạo ra sự đồng thuận xã hội trong việc bảo vệ quyền của vợ, chồng trong quan hệ tài sản của

vợ chồng. Nhận thức và thực hiện tốt pháp luật về quan hệ tài sản vợ chồng chính là việc góp phần đưa các nội dung của pháp luật HN&GĐ nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng trong việc tạo lập cơ sở pháp lý bảo vệ quyền về tài sản của công dân. Thông qua công tác tuyên truyền phổ biến Luật, nâng cao ý thức, tự giác chấp hành pháp luật của mỗi người về trách nhiệm cá nhân, chăm lo xây dựng gia đình thực sự trở thành tổ ấm của cá nhân, làm cho xã hội Việt Nam thực sự trở thành một đại gia đình của mọi người Việt Nam cùng nhau chung vai, sát cánh xây dựng đất nước độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần được thực hiện trên nguyên tắc tính toán khả năng lĩnh hội những kiến thức pháp lý của các tầng lớp dân cư, các loại đối tượng, từ đó lựa chọn những biện pháp và hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục phù hợp. Công tác phổ biến, tuyên truyền phải được tiến hành thường xuyên, sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân và trong nhân dân, đặc biệt là ở xã, phường, thị trấn, cụm dân cư, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà trường và gia đình; Phải đặt mục tiêu làm cho mọi người hiểu rõ những nguyên tắc, nội dung cơ bản của Luật. Tuy nhiên, cần đổi mới các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật về HN&GĐ để đưa các hoạt động đó đi vào chiều sâu, tránh lối tuyên truyền, giáo dục pháp luật có tính phong trào, nặng về bề nổi, hiệu quả không cao. Ví dụ như: tăng cường hoạt động tư vấn pháp lý về Luật HN&GĐ; khuyến khích thành lập các loại hình Câu lạc bộ gia đình, nơi mọi người có thể tham gia các sinh hoạt theo giới tính, theo lứa tuổi, hoặc theo nghề nghiệp, theo sở thích để trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau những điều cần thiết trong trách nhiệm làm vợ, làm chồng; đưa các nội dung về các quy định pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng vào chương trình, giáo trình, tài liệu trong các trường học; tổ chức tập huấn cho

đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân về Luật HN&GĐ. Hoạt động tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua báo, đài, pa nô, áp phích, các điểm truyền thông lưu động, các tuyên truyền viên; hoặc tổ chức biên soạn, xuất bản, phát hành các tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và cấp phát cho người dân.

Đồng thời, trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quan hệ HN&GĐ nói chung và quan hệ tài sản của vợ chồng nói riêng cần phải có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Đặc biệt, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Bộ Thông tin – Truyền thông, Hội Luật gia Việt Nam, các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương.

Hơn nữa, cần phải đảm bảo nguồn kinh phí cần thiết trong quá trình triển khai hoạt động tuyên truyền. Có thể sử dụng các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, từ sự tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước để mở rộng phạm vi triển khai hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; cũng như đảm bảo cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

3.2.3.5. Đẩy mạnh xã hội hoá công tác gia đình. Tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, gia đình, cộng đồng và mọi người dân

Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, những người tình nguyện và

cộng đồng tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, các loại hình dịch vụ gia đình nhằm củng cố, ổn định và phát triển gia đình.

Tạo phong trào rộng khắp với sự tham gia tích cực của gia đình, cộng đồng, nhà trường và toàn xã hội trong việc xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc.

Xây dựng các phong trào nhằm khuyến khích và nhân rộng các mô hình gia đình phát triển bền vững như: gia đình làm kinh tế giỏi, gia đình nhiều thế hệ chung sống mẫu mực, gia đình hiếu học ... Mặt khác, cần chú trọng các biện pháp nhằm duy trì và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa và nội dung các tiêu chí công nhận gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa phải phù hợp và có ý nghĩa thiết thực với đời sống của nhâ dân, công tác bình xét danh hiệu gia đình văn hóa phải được tiến hành theo tiêu chí thống nhất, tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực chất phong trào và chất lượng gia đình văn hóa.

3.2.3.6. Các biện pháp khác


- Đảm bảo sự tham gia, phối kết hợp chặt chẽ của các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị. Phải xây dựng cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước, giữa nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng.

- Có cơ chế, chính sách thỏa đáng để khuyến khích vợ chồng thực hiện các quyền của mình trong quan hệ tài sản vợ chồng; gắn việc xây dựng gia đình với sự nghiệp giải phóng phụ nữ; đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên trong gia đình.

- Có chế tài phù hợp với hành vi trái pháp luật về quan hệ tài sản vợ chồng.

KẾT LUẬN


Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh những biến đổi về cơ cấu và chức năng của gia đình luôn gắn liền với sự thay đổi về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta đã tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện, đồng thời cũng đặt gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức.

Do đó, quan tâm đến gia đình càng trở nên bức thiết, tạo ra những điều kiện tốt nhất để gia đình Việt Nam ngày càng được củng cố và phát triển theo hướng ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Đánh giá cao tầm quan trọng của gia đình trong sự phát triển của thời đại mới, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chiến lược, định hướng cơ bản đúng đắn trong mục tiêu xây dựng gia đình mới thời hiện đại.

Để đạt được những mục đích đó, phải hiểu rõ bản chất, nội dung, cơ sở hình thành các mối quan hệ trong gia đình, mà quan hệ thường xuyên, quan trọng là quan hệ tài sản của vợ chồng. Quan hệ tài sản của vợ chồng gồm quan hệ về sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng. Quan hệ pháp luật tài sản của vợ chồng mang đặc điểm đặc thù và có ý nghĩa để nhà nước quản lý và điều tiết quan hệ xã hội, là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, người thứ ba, và là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan. Lịch sử quy định của pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng, cũng như các quy định hiện hành của pháp luật HN&GĐ Việt Nam

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí