không thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng mà toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu duy nhất của người chồng…
Mặc dù trong chế độ cũ, quan hệ vợ chồng nói chung và quan hệ tài sản giữa vợ chồng nói riêng là quan hệ bất bình đẳng song pháp luật đã cũng bắt đầu đặt ra vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng.
Khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, quy định "Bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt" (Hiến pháp 1946) là nền tảng pháp lý để bảo vệ quyền của người phụ nữ. Trên cơ sở đó, hệ thống văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình sau này được ban hành qua các thời kỳ chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền của người phụ nữ nói chung và quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng nói riêng.
- Việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong quan điểm của Nho giáo cho rằng: người phụ nữ thuộc vào loại "tiểu nhân", nếu người phụ nữ nào tuân theo định mệnh thì sẽ hạnh phúc. Tư tưởng "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" của Nho giáo đã tước đi niềm hạnh phúc của người phụ nữ, vị thế và quyền lợi của họ không được bảo vệ trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình.
Theo tư tưởng của Phật giáo, người phụ nữ không được xem như là một phần của người chồng, cũng hoàn toàn không phải là tài sản hay thuộc sở hữu của người chồng. Phật giáo khuyến khích việc tặng của hồi môn cho con gái khi đám cưới, của hồi môn này là tài sản riêng của cô dâu và không bao giờ được xem như là cái giá mà gia đình cô dâu phải trả cho bên gia đình nhà chồng, cũng như không bao giờ giao hết cho gia đình nhà chồng. Của hồi môn là của để dành, sẽ giúp người vợ khi cần dùng đến. Trong giáo lý Phật giáo cũng không chấp nhận việc hạn chế các quyền lợi của người góa
phụ như mất quyền thừa kế tài sản, bảo vệ tài sản hay không được tham gia các lễ hội v.v...
- Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là các điều kiện kinh tế.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình đã được ban hành phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, trong đó đặc biệt chú ý tới chế độ tài sản giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền của người phụ nữ.
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội ở miền Bắc chưa phát triển, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cộng đồng toàn sản. Quy định này đã thực sự bảo đảm được quyền lợi của người vợ trong gia đình về tài sản. Tất cả tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung, quyền có tài sản riêng không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích của gia đình. "Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới" [38, Điều 15].
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 1
- Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 2
- Cách Thức Bảo Vệ Quyền Của Người Phụ Nữ Trong Quan Hệ Tài Sản Giữa Vợ Và Chồng
- Trong Việc Đăng Kí Quyền Tài Sản Thuộc Quyền Sở Hữu Chung
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ Chồng Đối Với Tài Sản Chung
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, kinh tế - xã hội phát triển, tài sản của công dân trở nên phong phú, đa dạng về giá trị sử dụng thực tế và giá trị tài sản. Để đảm bảo thực sự quyền tự định đoạt của công dân, để bảo vệ tốt hơn quyền của người phụ nữ, tạo môi trường pháp lý bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành, đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng. Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng được tự định đoạt tài sản của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia.
- Ở các mức độ khác nhau, trong pháp luật đã thừa nhận và ghi nhận quyền về tài sản của người vợ trong quan hệ xã hội. Điều này thể hiện sự tiến bộ và xu hướng chung trong việc thừa nhận và bảo vệ quyền của người phụ nữ.
- Ngoài ra, pháp luật đã quy định những hình thức, mức độ mà người vợ được phép thực hiện các quyền tài sản của mình trong thời kỳ hôn nhân cũng như những biện pháp xử lý các vi phạm các quyền đó của người vợ.
Điều này có thể thấy rõ trong nội dung các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cùng có quy định tài sản có trước khi kết hôn là tài sản riêng. Việc chuyển tài sản riêng thành tài sản chung phải theo đúng thủ tục quy định của pháp luật. Vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung…
1.2.2. Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ với chồng
Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ với chồng bao gồm ba mối quan hệ: quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ cấp dưỡng, quan hệ thừa kế.
1.2.2.1. Quan hệ sở hữu tài sản
Một trong những quyền cơ bản của vợ chồng là quyền sở hữu tài sản của vợ chồng. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một phạm trù pháp lý thuộc quyền sở hữu công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Dưới góc độ pháp luật, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật tài sản điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng bao gồm việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản của vợ chồng; đồng thời xác định những xử sự mà vợ chồng được phép thực hiện liên quan đến những tài sản đó trên cơ sở bảo đảm lợi ích chung của gia đình, của nhà nước và xã hội.
Trong thời kỳ hôn nhân, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một quyền quan trọng, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là quyền sở hữu đối với tài sản chung và
quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng có nguồn gốc và thời điểm xác lập khác nhau, đối với mỗi loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định khác nhau nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người có tài sản. Nội dung quyền sở hữu tài sản của vợ chồng bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản chung và tài sản riêng của mỗi bên.
Việc pháp luật quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm mục đích bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng, thực hiện các chức năng của gia đình, tạo điều kiện ổn định để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo lợi ích gia đình.
Như vậy, pháp luật quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng giúp vợ chồng thực hiện quyền dân chủ và bình đẳng trong các quan hệ tài sản, khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm đối với cuộc sống gia đình; đồng thời cũng chính là cơ sở để phân định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc tham gia các giao dịch dân sự. Mặt khác việc quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng còn là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa vợ chồng với bên thứ ba nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên tham gia giao dịch dân sự. Tóm lại vấn đề quyền sở hữu tài sản của vợ chồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ duy trì sự ổn định và phát triển của từng gia đình nói riêng, mà còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước. Sự đóng góp sức lao động tài sản của vợ chồng vào các hoạt động kinh doanh đã góp phần không nhỏ vào nền kinh tế của đất nước.
Đối với người phụ nữ, với tư cách là người vợ trong mối quan hệ với người chồng trong gia đình, quyền sở hữu tài sản của họ được pháp luật thừa nhận và khẳng định: họ có có quyền sở hữu đối với tài sản riêng và quyền sở hữu tài sản chung với người chồng. Đối với tài sản riêng, với tư cách là một
công dân, người phụ nữ có quyền sở hữu đối với tài sản riêng, điều này đã được Hiến pháp thừa nhận, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt của công dân. Việc ghi nhận người phụ nữ có quyền có tài sản riêng đảm bảo cho họ chủ động trong các giao dịch dân sự độc lập mà không phụ thuộc vào ý chí của người chồng, đảm bảo quyền tự định đoạt của công dân, đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ với chồng. Đối với tài sản chung, pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho họ có quyền thực hiện những hành vi sử dụng, chiếm hữu, định đoạt tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp.
Vấn đề quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong quan hệ với người chồng được pháp luật ghi nhận ở mỗi thời kỳ với các mức độ khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, điều kiện kinh tế xã hội. Việc ghi nhận này càng đầy đủ, càng chính xác thì càng đảm bảo sự bình đẳng thực tế giữa vợ với chồng, từ đó càng bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người phụ nữ. Tuy nhiên trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tham gia của vợ chồng vào các giao dịch dân sự, thương mại ngày càng rộng, đã nảy sinh nhiều tranh chấp không chỉ liên quan đến tài sản của vợ chồng mà còn liên quan đến tài sản giữa vợ chồng với người thứ ba. Do đó, giải quyết tốt vấn đề quyền sở hữu tài sản của vợ chồng sẽ bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong giao dịch dân sự, góp phần ổn định các quan hệ xã hội và điều tối quan trọng là bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình.
1.2.2.2. Quan hệ thừa kế tài sản
Quyền thừa kế tài sản là quyền hiến định của công dân, được Nhà nước bảo hộ; đồng thời quyền thừa kế của cá nhân công dân là một trong những quyền dân sự cơ bản, là một căn cứ phổ biến xác lập quyền sở hữu tài sản của công dân. Quyền thừa kế của công dân Việt Nam không ngừng được củng cố, mở rộng và được bảo vệ theo các nguyên tắc tôn trọng ý chí của người để lại thừa kế, bảo đảm quyền bình đẳng của những người được thừa kế.
Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho những người còn sống. Vợ chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Xuất phát từ mối quan hệ hôn nhân hợp pháp, là những người có quan hệ thân thiết, gần gũi nhất, vợ chồng có quyền được thừa kế tài sản của nhau. Do đó, quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là "thừa kế của nhau", nghĩa là khi vợ chết thì chồng là người thừa kế ở hàng thứ nhất của vợ và ngược lại, khi chồng chết thì vợ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của chồng. Quyền thừa kế của người vợ đã được pháp luật quy định khác nhau qua các thời kỳ và có một số đặc điểm sau:
- Quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng được pháp luật công nhận khác nhau trong các giai đoạn lịch sử.
Trong thời kỳ phong kiến, chế định thừa kế của Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện nét tiến bộ của pháp luật triều Lê. Chế độ thừa kế tài sản giữa vợ chồng tại Bộ luật này đã đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong vấn đề thừa kế và tài sản: người vợ có quyền quản lý tài sản sau khi chồng chết, mặc dù tính thứ bậc vẫn được biểu hiện ở quy định: người vợ chính được hưởng thừa kế nhiều hơn người vợ thứ, vợ lẽ. Tại Bộ luật Gia Long, pháp luật đề cao vai trò của trưởng nam, thừa nhận quyền thừa kế của con trai, con gái chỉ có quyền khi gia đình tuyệt tự, bộ luật không quy định quyền thừa kế của người vợ.
Pháp luật thời Pháp thuộc, quyền thừa kế của người phụ nữ trong quan hệ với người chồng bị hạn chế. Người phụ nữ chỉ có quyền lập di chúc thừa kế đối với tài sản riêng của mình khi có sự đồng ý của người chồng (Điều 321 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 313 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Nếu người phụ nữ chết trước chồng, người chồng được coi là chủ sở hữu duy nhất đối với toàn bộ tài sản riêng của người vợ; tuy nhiên, nếu người chồng chết trước, thì người vợ chỉ có quyền đối với tài sản riêng của mình
Sau Cách mạng tháng Tám, pháp luật về thừa kế nói chung đã dần thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng. Một số
văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bắt đầu ghi nhận: vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Đến năm 1990 khi Pháp lệnh Thừa kế được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên quy định tương đối đầy đủ về vấn đề thừa kế, bảo vệ quyền của người phụ nữ trong vấn đề nhận di sản và để lại di sản thừa kế. Khi Bộ luật Dân sự 1995 được ban hành và nhất là Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời càng khẳng định thêm: quyền thừa kế tài sản của công dân Việt Nam nói chung và quyền thừa kế của vợ chồng luôn được bảo hộ, đặc biệt là quyền thừa kế và để lại thừa kế của người phụ nữ được thực hiện một cách triệt để nhất.
- Trong xã hội trước đây vấn đề thừa kế được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán; nhưng khi xã hội có giai cấp, thừa kế là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Quyền thừa kế gắn liền với sự phát triển của lịch sử nhân loại. Trong xã hội nguyên thủy, việc thừa kế được hình thành theo tập quán của thị tộc. Trong xã hội phong kiến khi có pháp luật điều chỉnh rồi, thừa kế vẫn có thể được điều chỉnh bởi phong tục tập quán địa phương; ví dụ như Luật Gia Long không ghi nhận quyền thừa kế của con gái nhưng cũng không có quy định nào cấm con gái được hưởng thừa kế, việc con gái có được hưởng thừa kế hay không sẽ được điều chỉnh theo phong tục tập quán của từng địa phương hoặc do thỏa thuận của gia đình.
Có thể nói rằng, để được ghi nhận và được đảm bảo trên thực tế vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau, lịch sử pháp luật đã phải trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài. Từ đó, quyền thừa kế của người vợ phải được ghi nhận bình đẳng với chồng, đấy cũng là một minh chứng rõ nét để bảo vệ quyền tài sản của người vợ nói chung. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật quốc tế: đảm bảo cho người phụ nữ bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc quản lý, hưởng thụ tài sản.
Pháp luật quy định "vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" nhằm mục đích khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ
tài sản nói chung. Pháp luật thừa nhận vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau thể hiện đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, người còn lại tiếp tục duy trì và phát triển khối tài sản của gia đình, dòng họ.
1.2.2.3. Quan hệ cấp dưỡng
Cấp dưỡng là quan hệ đặc thù được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu. Từ đó, có thể hiểu việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng là việc vợ hoặc chồng có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bên kia khi họ không cùng chung sống mà gặp khó khăn, túng thiếu do không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Xét về bản chất, quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ tài sản đặc biệt, gắn liền với nhân thân của người cấp dưỡng, chỉ phát sinh khi có những điều kiện nhất định, trong khi đó tính chất có đi có lại của quan hệ cấp dưỡng lại không mang tính tuyệt đối bởi quan hệ gia đình gắn bó chủ yếu bằng tình cảm.
Xuất phát từ việc vợ và chồng có quyền và trách nhiệm với nhau trong thời gian hôn nhân cũng như khi hôn nhân tan vỡ cho nên bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản với chồng nhất thiết phải bảo vệ quyền lợi của họ thông qua chế định cấp dưỡng. Pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện quan hệ cấp dưỡng giữa vợ với chồng. Pháp luật quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ với chồng xuất phát từ đạo lý, tình nghĩa vợ chồng, là biểu hiện tốt đẹp của truyền thống đạo đức dân tộc.Việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong quan hệ cấp dưỡng tạo điều kiện để đảm bảo cuộc sống cho họ khi họ bị túng thiếu, khó khăn.