về việc thực hiện pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có việc áp dụng thống nhất quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Trước những thay đổi lớn lao của đất nước, Hiến pháp 1980 đã được ban hành. Cùng với những quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước…, quy định tại các điều 38, 47, 63, 64 của Hiến pháp năm 1980 về các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa đã tạo nền tảng cho bước phát triển mới của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam…Việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 trong giai đoạn này đã có một số điều khoản không phù hợp. Do vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã được ban hành thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có nhiều điểm khác biệt so với các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình trước đó. Theo quy định tại Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung" [34]. Điều 15, 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn quy định mục đích sử dụng tài sản chung là "để đảm bảo những nhu cầu chung của gia đình" và "vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung". Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng đã quy định ba trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, trong đó có hai trường hợp kế thừa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 như trường hợp một bên chết trước (Điều 17), khi vợ, chồng ly hôn (Điều 42). Ngoài ra Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn có một quy định mới về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại (Điều 18) và xác định nguyên tắc chia tài sản chung trong các trường hợp trên. Đặc biệt, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã ghi nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ hoặc chồng là tài sản
"mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân". Và cũng theo quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì vợ hoặc chồng có tài sản riêng "có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng" [34].
Từ những quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đặc biệt là việc quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng, vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật về công chứng đã xuất hiện những quy định về việc công chứng văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Văn bản đầu tiên điều chỉnh hoạt động này là Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng của nhà nước, theo đó các Phòng công chứng nhà nước chuyên trách được thực hiện việc "chứng nhận phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng" (mục II.2). Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng, trong đó mục II.7 về trình tự thực hiện việc chứng nhận phần tài sản riêng trong tài sản chung của vợ chồng đã quy định:
Giấy chứng nhận tài sản riêng trong tài sản chung có thể cấp theo yêu cầu của cả hai vợ chồng hay một bên vợ hoặc chồng nếu bên kia chết.
Giấy chứng nhận tài sản riêng trong tài sản chung của vợ, chồng chỉ cấp khi vợ, chồng chưa ly hôn; còn khi ly hôn thì Tòa án sẽ định đoạt tài sản của vợ, chồng theo quy định của pháp luật.
Trình tự cấp giấy chứng nhận tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
- Xem đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận tài sản riêng trong tài sản chung của vợ, chồng. Công chứng viên không cần biết vì sao vợ, chồng muốn lập giấy chứng nhận phần tài sản riêng trong phần tài sản chung của họ.
- Xác định quan hệ vợ, chồng trên cơ sở giấy kết hôn, chú ý ngày tháng kết hôn để xác định chính xác tài sản chung.
- Xác định tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật hiện hành (chú ý các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu).
Có thể bạn quan tâm!
- Công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng - 2
- Đặc Điểm Của Văn Bản Công Chứng
- Pháp Luật Việt Nam Về Chế Độ Tài Sản Của Vợ, Chồng Và Việc Công Chứng Các Văn Bản Liên Quan Đến Tài Sản Của Vợ, Chồng Qua Các Giai Đoạn
- Công Chứng Hợp Đồng, Giao Dịch Do Công Chứng Viên Soạn Thảo Theo Đề Nghị Của Người Yêu Cầu Công Chứng
- Công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng - 7
- Công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng - 8
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Giấy chứng nhận tài sản riêng của vợ, chồng lập theo mẫu số 8 (kèm theo văn bản này) [5].
Như vậy, mặc dù lần đầu tiên được ghi nhận và vẫn còn những hạn chế nhất định song những quy định về việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho vợ, chồng trong việc định đoạt, sử dụng tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và tài sản riêng của mỗi người.
Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Điều 15 của Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 quy định về các việc công chứng công chứng viên thực hiện, trong đó có việc "chứng nhận tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của vợ hoặc chồng" (khoản 5). Chương III Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các việc công chứng. Điều 27 Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 quy định về việc chứng nhận tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của vợ hoặc chồng như sau:
Công chứng viên chứng nhận tài sản chung của vợ chồng hoặc tách một phần tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng trên cơ sở đơn viết chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại.
Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản đó được nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn viết của người có tài sản đó [10].
Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước không có điều luật nào quy định cụ thể về việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng mà chỉ quy định về phạm vi công chứng, theo đó Phòng công chứng nhà nước thực hiện việc "chứng nhận các việc theo quy định của pháp luật phải được thực hiện công chứng" và "Chứng nhận theo yêu cầu của đương sự các việc mà pháp luật giao cho công chứng chứng nhận" (khoản 2, 3 Điều 18 Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ). Và như vậy, các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng có thể được chứng nhận nếu rơi vào một trong hai trường hợp là "theo quy định của pháp luật phải được thực hiện công chứng" hoặc "theo yêu cầu của đương sự".
1.2.4. Giai đoạn từ 2000 đến nay
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành và áp dụng trên thực tế đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất nước đòi hỏi phải có những sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cho phù hợp với tình hình thực tiễn hơn. Ngày 9/6/2000, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 đã chính thức thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2001. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, trong đó tiếp tục quy định về thành phần khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; các trường hợp chia tài sản chung và hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ, chồng.
Về việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng, cũng tương tự như Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực không quy định cụ thể việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng mà việc công chứng các văn bản đó được thực hiện theo thủ tục chung. Điều 3 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 chỉ quy định về phạm vi công chứng, chứng
thực hợp đồng, giao dịch, theo đó hợp đồng, giao dịch được công chứng, chứng thực là "Hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực" và "Hợp đồng, giao dịch mà pháp luật không quy định phải công chứng, chứng thực nhưng cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu". Như vậy, Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ đã kế thừa các quy định về phạm vi công chứng (chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật), ngoài ra còn quy định việc công chứng các hợp đồng, giao dịch mà pháp luật không quy định phải công chứng nhưng cá nhân hoặc tổ chức tự nguyện yêu cầu.
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ đã thể hiện vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế của các tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, đến trước thời điểm Luật Công chứng được ban hành và có hiệu lực, về mặt lý luận cũng như trong quy định của pháp luật còn có sự lẫn lộn giữa hoạt động công chứng của Phòng công chứng với hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân. Mặc dù Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã có sự phân biệt về thuật ngữ "Công chứng" và "Chứng thực" nhưng đó mới chỉ là sự phân biệt về mặt hình thức. Mặt khác, quy định tại khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về việc Phòng Công chứng "được công chứng các việc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 22 của Nghị định này" và "được công chứng tất cả các việc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã quy định tại Điều 24 của Nghị định này" cũng như quá trình thực hiện quy định đó đã dẫn đến sự nhầm lẫn trong cách hiểu của số đông người dân về chức năng chứng thực của Ủy ban nhân dân và chức năng công chứng của Phòng công chứng. Nhiều người dân coi Phòng công chứng như một cơ quan hành chính nhà nước mà không phải là tổ chức dịch vụ công. Một số văn bản quy phạm pháp luật đã quy định theo hướng các hợp đồng, giao dịch cũng như việc sao y giấy tờ có thể do Phòng công chứng chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân chứng thực.
Mô hình tổ chức công chứng nhà nước theo quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP cũng bộc lộ những điểm bất cập. Với việc Phòng công chứng là cơ quan nhà nước, do Nhà nước thành lập, hoạt động của Phòng công chứng do ngân sách Nhà nước bao cấp; công chứng viên là công chức nhà nước nên việc phát triển đội ngũ công chứng viên gặp khó khăn do thiếu biên chế. Việc phát triển số lượng Phòng công chứng cũng bị hạn chế do số lượng công chứng viên không đủ để thành lập Phòng (theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì Phòng công chứng "phải có ít nhất 3 công chứng viên"); trong khi đó nhu cầu về công chứng ngày càng lớn dẫn đến các Phòng công chứng luôn trong trong tình trạng quá tải. Mặt khác, công chứng viên là công chức nhà nước nên việc làm và thu nhập của công chứng viên được nhà nước bảo đảm. Điều đó dẫn đến việc một bộ phận không ít công chứng viên chưa thực sự quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và nâng cao chất lượng phục vụ, thậm chí còn tư tưởng quan liêu, cửa quyền trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Dự thảo Luật Công chứng được xây dựng trên tinh thần quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xã hội hóa hoạt động công chứng. Dự thảo cũng được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điểm tích cực, hợp lý trong tổ chức và hoạt động công chứng hiện hành và có sự tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Ngày 29/11/2006, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Công chứng và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007.
Luật Công chứng không có điều khoản nào quy định cụ thể về việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. Việc công chứng viên thực hiện chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng căn cứ vào phạm vi công chứng quy định tại Điều 2 của Luật Công chứng và các quy định tại Mục 1 Chương IV về thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch và căn cứ vào các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình cũng như các quy định pháp luật khác có liên quan.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN
LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG
2.1. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG
Việc công chứng hợp đồng, giao dịch nói chung và công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng nói riêng có thể được thực hiện theo trình tự công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn hoặc công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng. Dù thực hiện theo hình thức nào thì việc công chứng cũng phải tuân theo các quy định chung của Luật Công chứng về trình tự, thủ tục, về thời hạn và địa điểm công chứng, về chữ viết và việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng, về việc sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng…
2.1.1. Thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch
2.1.1.1. Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn
Việc công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn được thực hiện theo quy định tại Điều 35 Luật Công chứng. Theo quy định tại Điều 35 Luật Công chứng thì người yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ yêu cầu công chứng, gồm các giấy tờ sau đây:
- Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch theo mẫu;
- Dự thảo hợp đồng, giao dịch;
- Bản sao giấy tờ tùy thân;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định
phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.
Khi nộp bản sao thì người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản chính để đối chiếu.
Cũng theo quy định tại Điều 35 Luật Công chứng thì khi nhận được yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch nói chung và yêu cầu chồng chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng nói riêng, công chứng viên cần thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cơ bản sau:
- Công chứng viên tiếp nhận hồ sơ và kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì thụ lý, ghi vào sổ công chứng. Trường hợp hồ sơ công chứng chưa đầy đủ thì hướng dẫn cho người yêu cầu công chứng về bổ sung, hoàn thiện hồ sơ.
Trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc có sự nghi ngờ đối tượng của hợp đồng, giao dịch là không có thật thì công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.
- Sau khi kiểm tra các giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng, công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng, giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch không phù hợp với thực tế thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng.