CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 20

khó khăn như thiếu vốn, thiếu cán bộ trong lĩnh vực công nghệ môi trường và nhiều khi là thiếu cả cơ cấu hạ tầng cần thiết để duy trì hệ thống pháp lý và kiểm soát ô nhiễm do chất thải nguy hại gây ra. Mặt khác, các nước đang phát triển ngày càng khó kiếm được những công nghệ đơn giản mà các nước phát triển đã áp dụng trước đó như là những công nghệ tạm thời hoặc chuyển tiếp, vì hiện nay các công nghệ này đã bị cấm. Ví dụ như việc đốt chất thải trên biển đã bị cấm cuối năm 1992, đổ chất thải công nghiệp xuống biển bị cấm năm 1995 hay một số nước đã cấm việc đổ chất thải nguy hại chung với các loại chất thải khác trong cùng một bãi thải, việc xuất khẩu cac chất thải nguy hại sang các nước khác cũng bị Công ước Basel cấm. Đa số các nước đang phát triển đều có những khó khăn lớn trong việc xây dựng, áp dụng và thực thi các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại. Cũng có một số nước đang phát triển đã xây dựng các văn bản pháp luật theo cách của nước ngoài nhưng kết quả lại không khả quan, không có hiệu quả vì đặc thù kinh tế - xã hội của các nước không hoàn toàn giống nhau.

Tóm lại, bài học lớn nhất cho những người có trách nhiệm về quy hoạch phát triển quốc gia là phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn phát triển, ta nên rà soát lại mà điều chỉnh các mục tiêu phát triển, đó là (1) vì tương lai, (2) vì đất nước nói chung, và (3) vì chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống không phải chỉ được đo bằng GDP, bằng sản lượng điện tiêu thụ, sản lượng của công nghiệp ngành nhựa… Cần tham khảo cách phân loại chất lượng sống của (UNDP) để suy ngẫm thêm chất lượng cuộc sống mà ta cần hướng đến. Cha mẹ người Việt có truyền thống hy sinh cho con cái. Bảo vệ môi trường đòi hỏi từ lãnh đạo đến người dân cùng nhau chung sức xây dựng đường hướng phát triển cho đúng cách, có chiều sâu, nghĩa là bảo vệ cuộc sống không phải chỉ cho chính thế hệ hôm nay mà còn cho cả mai sau.


VI.7.2 Việt Nam

VI.7.2.1 Chất thải nguy hại ở Việt nam

Luật môi trường năm 1993 đã bước đầu đưa ra những quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của các điều khoản mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra một cách chung chung và chưa có tính hệ thống, đồng bộ, cụ thể cho các đối tượng liên quan. Khi chính phủ ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại ngày 16/7/1999 thì hoạt động quản lý chất thải nguy hại mới được định nghĩa đầy đủ là “các hoạt động kiểm soát chất thải nguy hại trong suốt quá trình từ phát sinh đến thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu huỷ chất thải nguy hại” (khoản 3, điều 3). Có thể nói đây là văn bản pháp lý duy nhất hiện nay điều chỉnh các vấn đề về quản lý chất thải nguy hại.

Một số khó khăn, trở ngại trong quá trình quản lý chất thải nguy hại:

- Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại của chúng ta hiện nay vẫn còn chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ, tổng thể; thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện quy chế quản lý chất thải nguy hại; các địa phương áp dụng chưa thống nhất và còn nhiều lúng túng và nhất là thiếu các chế tài xử phạt cụ thể đối với các hành vi vi phạm.

- Ý thức thực hiện pháp luật về môi trường nói chung và pháp luật về quản lý chất thải nguy hại nói riêng của các cơ sở sản xuất kinh doanh và đại bộ phận nhân dân chưa cao. Điều này cũng xuất phát từ sự nhận thức vấn đề bảo vệ môi trường vẫn còn hạn chế và bản thân pháp

luật môi trường hiện nay do ảnh hưởng của nhiều vấn đề xã hội nên còn mang nặng tính tuyên truyền, giáo dục và thiếu tính răn đe.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

- Việc thực hiện các quy định pháp luật bắt buộc của các chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý chưa được nghiêm túc và triệt để, nhất là trong các cơ sở công nghiệp. Các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là công tác thanh tra môi trường còn kém, các chế tài xử phạt chưa nghiêm minh và chưa có tính răn đe cao. Ngoài ra, còn có một nguyên nhân hết sức quan trọng khác là việc đầu tư kinh phí cho công tác này sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, giảm tính cạnh tranh trong kinh doanh.

VI.7.2.2 Xây dựng phương hướng quản lý

CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 20

a Xây dựng cơ chế quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam

- Xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể: bổ sung đầy đủ danh mục các chất thải nguy hại đã nêu trong quy chế, trong đó có mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với các loại hình chất thải nguy hại khác nhau. Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc chọn lựa địa điểm, thiết kế xây dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Nghiên cứu, ban hành các hướng dẫn về phương pháp tính để xây dựng phí thu gom, xử lý, tiêu huỷ chất thải nguy hại. Ban hành danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (trong đó có quy định khống chế tỷ lệ chất thải nguy hại) được phép nhập khẩu dùng trong sản xuất công nghiệp.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý các vi phạm: quy định tại Nghị định số 26/CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là quá nhẹ, không hợp lý và còn nhiều điểm quy định rất chung chung (ví dụ: theo Điểm b, Điều 16 Nghị định 26/CP, mức phạt cao nhất chỉ là 15.000.000 VNĐ áp dụng đối với hành vi chôn vùi, thải các chất thải nguy hại quá giới hạn cho phép với khối lượng lớn, thời gian khắc phục hậu quả lâu dài). Ngay cả trong 10 tội danh tại Chương 17 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định tội phạm về môi trường cho thấy các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp (chỉ có từ 5 – 10 năm là tối đa).

- Ban hành một số chính sách quản lý nhà nước phù hợp

+ Thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm: các phí này là loại thuế hoặc phí trực tiếp đánh vào các chất thải nguy hại tại điểm được sản sinh ra hay tại điểm đổ bỏ. Mục tiêu chính của những thuế này là kích thích các nhà sản xuất sử dụng các phương pháp hạn chế và giảm thiểu chất thải. Đánh thuế trực tiếp vào một số sản phẩm có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có chì, nhà máy nhiệt điện, thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng...

+ Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng công nghệ sạch và tạo điều kiện cho việc hình thành các công ty vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại từ những nguồn vốn khác nhau (vốn liên doanh, vốn cổ phần hoặc vốn tư nhân) bằng các cơ chế tài chính như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay tín dụng ưu đãi...).

- Các chính sách về quản lý hành chính và đầu tư khoa học công nghệ

+ Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường. Cần tổ chức đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn cũng như luật pháp đề đội ngũ này có khả năng thực thi có hiệu quả công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.

+ Xây dựng những khu công nghiệp tập trung bao gồm nhiều nhà sản xuất để có phương án tập trung xử lý chất thải, cách này giảm được chi phí riêng biệt cho các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực khác nhau.

+ Khuyến khích việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục

Khuôn khổ pháp lý là cần thiết nhưng ý thức tự giác của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường cũng đóng góp một vai trò quan trọng, phù hợp với quan điểm chung: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân”, tất cả cùng hướng đến mục đích vì một sự phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai cho đất nước. Vì vậy, chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chất thải nguy hại và pháp luật về chất thải nguy hại, phân tích làm cho nhân dân hiểu được rằng đây là một vấn đề đang được cả thế giới quan tâm và “tai hoạ sẽ đến với tất cả chúng ta, không kể người giàu hay nghèo” nếu không ý thức được điều này.

- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế

+ Tích thực nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và các quốc gia trên thế giới trong vấn đề quản lý chất thải nguy hại để tìm ra các giải pháp, các chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

+ Thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ giúp cho các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại đạt kết quả cao hơn. Thông qua các hoạt động như trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ về tài chính, chúng ta sẽ có điều kiện triển khai giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong công tác quản lý chất thải nguy hại, nhất là vấn đề vốn và công nghệ.

+ Tham gia xây dựng và thực hiện các công ước quốc tế về lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại cũng cần coi là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách bảo vệ môi trường bởi nói không chỉ thể hiện ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ sự phát triển bền vững của riêng đất nước chúng ta mà còn là trách nhiệm chung đối với sự tồn tại và phát triển của toàn nhân loại.

b Quản lý chất thải công nghiệp

- Cần phải có biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc xử lý chất thải nguy hại do mình gây ra và đầu tư tăng cường các công ty có chức năng xử lý chất thải nguy hại.

- Không cho nhập phế thải, hàng hóa second-hand: kinh nghiệm của các nước tiên tiến cho thấy không dùng hàng second-hand dù có rẻ hoặc cho không, biếu không nếu loại hàng này chứa chất nguy hại, cực kỳ nguy hiểm trong tương lai lâu dài.

- Không cấp giấy phép đầu tư gây ô nhiễm nguy hại.

- Kiên quyết ngăn chặn hóa chất giả: phân bón giả, thuốc bảo vệ thực vật giả, thuốc kích thích thực vật giả… vì cuối cùng các chất giả này cũng sẽ đi vào môi trường. Ngoài ra, còn có tác động tệ hại hơn là các chất này cũng xâm nhập vào cơ thể con người.

- Gắn kết quyền lợi địa phương với quyền lợi đất nước. Nhà nước phải ngăn chặn địa phương vì quyền lợi cục bộ mà hy sinh quyền lợi của quốc gia và không loại trừ vì quyền lợi

cá nhân mà hy sinh quyền lợi tập thể. Việc ký quyết định ồ ạt cho phép xây sân golf, mở nhà máy không có công nghệ xử lý ô nhiễm ngay trên cả đất lúa tốt.

- Gắn kết với quyền lợi người dân Việt Nam với quyền lợi phát triển kinh tế đất nước.

- Thực thi pháp luật: nếu thực thi chặt chẽ thì cũng có tác dụng chứ không phải là vô hiệu

c Quản lý sản xuất nông nghiệp bền vững

- Quản lý chất thải rắn theo mô hình kim tự tháp ngược

- Thu gom và xử lý chất thải rắn: ủ sinh học, chôn lắp, xử lý chất thải rắn trong sản xuất nông nghiệp

- Phòng chống suy thoái đất: bảo vệ đất bằng cách che phủ đất, luân canh, quản lý dòng chảy, tránh rửa trôi,

- Khuyến khích hệ thống sản xuất nông nghiệp kết hợp với chăn nuôi

- Đẩy mạnh biện pháp phòng trừ tổng hợp IPM

- Bảo tồn nguồn gen quý trong sản xuất nông nghiệp để cải thiện giống

- Bảo vệ đất ngập nước do bởi đất ngập nước giúp tồn trữ nước, duy trì mực nước ngầm, kiểm soát lụt lội, chống nhiễm mặn.

- Bảo vệ rừng và đất rừng: quản lý, khoa học công nghệ, thông tin tuyên truyền, nghiên cứu hợp tác.


VI.8. THẢO LUẬN CUỐI CHƯƠNG

Câu 1. Các Anh (Chị) cho biết tình hình quản lý chất thải rắn ở Việt Nam?

Câu 2. Nguồn phát sinh chất thải rắn và sự tác động của nó đối với môi trường? Câu 3. Các giải pháp quản lý chất thải nguy hại hiện nay?

CHƯƠNG VII: MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI‌


VII.1. KHÁI QUÁT KINH TẾ MÔI TRƯỜNG

VII.1.1 Giới thiệu

Kinh tế môi trường trong nghiên cứu các vấn đề về môi trường với cách nhìn và phương pháp phân tích của kinh tế học. Kinh tế học nghiên cứu tại sao và làm thế nào mà con người

– có thể là người tiêu thụ, nhà sản xuất, các tổ chức phi lợi nhuận hay các cơ quan nhà nước

– đưa ra các quyết định sử dụng các nguồn tài nguyên có giá trị. Kinh tế học được chia thành kinh tế vi mô – nghiên cứu hành vi của các cá nhân hay các nhóm nhỏ và kinh tế vĩ mô – nghiên cứu hoạt động kinh tế của toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế môi trường có nguồn gốc từ các hai chuyên ngành này, nhưng chủ yếu vẫn là từ kinh tế vi mô. Nghiên cứu kinh tế môi trường, cũng giống như tất cả các môn kinh tế học khác, quan tâm đến vấn đề cơ bản là phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng có tính cạnh tranh. Các khái niệm về sự khan hiếm, chi phí cơ hội, sự đánh đổi, lợi ích biên chi phí biên là chìa khóa để hiểu các vấn đề môi trường và cách thức giải quyết vấn đề đó.

Kinh tế môi trường sử dụng những khái niệm quen thuộc trong kinh tế học. Sự khác biệt giữa kinh tế môi trường với các môn học kinh tế khác nằm ở chỗ kinh tế môi trường tập trung nghiên cứu xem các hoạt động kinh tế ảnh hưởng như thế nào đến môi trường tự nhiên

– không khí, nước, đất và vô số các giống loài sinh vật. Các quyết định kinh tế của con người, các nhà sản xuất và chính phủ có thể gây ra những ảnh hưởng có hại đến môi trường tự nhiên. Việc chôn lấp chất thải rắn vào môi trường tự nhiên đã tạo ra ô nhiễm và suy thoái các hệ sinh thái. Điều đó dẫn đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên không tối ưu. Tại sao điều này lại xảy ra trong hệ thống kinh tế-xã hội? Tại sao con người không tính đến các ảnh hưởng từ các hoạt động kinh tế lên môi trường thiên nhiên? Điều quan trọng ở đây là kinh tế môi trường nghiên cứu và đánh giá các phương cách khác nhau để đạt được mục đích sử dụng tối ưu xã hội tất cả các nguồn tài nguyên, trong đó có tài nguyên môi trường.


VII.1.2 Quyền sở hữu

Trong thực tế có mối liên hệ giữa hệ thống kinh tế và môi trường. Một vấn đề môi trường tồn tại khi việc sử dụng nguồn tài nguyên không hợp lý hay có tác động tiêu cực đối với các thế hệ tương lai. Như vậy khi nào sử dụng hiệu quả hay bền vững các nguồn tài nguyên? Để nghiên cứu và thực hiện đánh giá về kinh tế môi trường thì quyền sở hữu là một phạm trù cần được biết và hiểu rỏ để áp dụng quyền sở hữu trong việc tạo ra sản phẩm và giới hạn sử dụng cạn kiệt tài nguyên? Ảnh hưởng của quyền sở hữu ra sao đối với thị trường và các chính sách của nhà nước. các tính chất và đặc điểm của quyền sở hữu sẽ được trình bày tóm tắt dưới đây;


- Quyền sở hữu có ảnh hưởng quyết định trên cách thức tạo và tiêu thụ sản phẩm. Trong lĩnh vực kinh tế, quyền sở hữu được ám chỉ là sự cho phép xác định quyền làm chủ, sự đặc quyền và sự giới hạn sử dụng nguồn tài nguyên.

- Quyền sở hữu này có thể được trao cho các cá nhân như đối với nền kinh tế tư bản

sở hữu cá thể hay sở hữu tập thể đối với nền kinh tế XHCN có kế hoạch tập trung.

- Nền kinh tế tư bản thường chạy theo lợi nhuận, và nền kinh tế tập trung không chạy theo lợi nhuận. Mặt khác, sự chạy theo lợi nhuận chắc chắn sẽ không tránh khỏi mâu thuẩn với việc thỏa mãn nhu cầu của con người. Như vậy chúng ta sẽ làm thế nào vẫn đảm bảo lợi nhuận nhưng vẫn thỏa mãn những đòi hỏi của con người?

Quyền sở hữu có bốn đặc điểm chính:

- Tính phổ biến-tất cả nguồn tài nguyên đều phải được làm chủ, và tất cả đặc quyền phải hoàn toàn chuyên biệt.

- Tính độc quyền-tất cả lợi nhuận và chi phí là kết quả của người làm chủ, chỉ có người làm chủ mới có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp trên việc sử dụng nguồn tài nguyên.

- Tính chuyển nhượng-tất cả quyền sở hữu sẽ được chuyển nhượng từ người chủ này sang người chủ khác trên tinh thần trao đổi tự nguyện.

- Tính chiếm đoạt-quyền sở hữu sẽ được chiếm giữ từ sự chiếm đoạt không tự nguyện hay là sự xâm chiếm bởi các thành viên khác


VII.1.3 Đánh giá kinh tế môi trường

Đánh giá kinh tế môi trường là một phần của công tác quản trị môi trường, công tác này nhằm đánh giá một dự án trên quan điểm kinh tế môi trường và xã hội. Mục đích cuối cùng là mang lại phúc lợi xã hội cao nhất mà vẫn bảo đảm môi trường lành mạnh, không làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên. Có nhiều phương pháp để đánh giá kinh tế môi trường nhưng có 3 phương pháp hiện đang đươc sử dụng phổ biến:

- Phương pháp chi phí cơ hội opportunity cost. Đây là phương pháp khảo sát giá thị trường trước khi sử dụng nguồn tài nguyên. Ví dụ khi ta thực hiện dự án trồng rừng trên một khu đất có diện tích đất trồng trọt lớn. Sự mất đi đất canh tác đó chính là biểu hiện cuả chi phí cơ hội

- Phương pháp chi phí thay thế. Đây là phương pháp tính toán chi phí khi sử dụng một tài nguyên thay thế cho một tài nguyên môi trường đang sử dụng. Ví dụ khi muốn mở rộng xa lộ xuyên qua một khu vực có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Chúng ta phải xem xét lợi nhuận mang lại từ việc mở rộng này so với cảnh đẹp thiên nhiên ở đây mang lại

- Phương pháp chi trả của nhà nước. Đây là cách nhà nước bồi thường cho các nhà sản xuất đặc biệt là đối với người nông dân để họ chấp nhận các biện pháp mà không gây thiệt hại cho môi trường.

VII.2. LUẬT MÔI TRƯỜNG‌

VII.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển luật môi trường

Trong thế kỹ XIX, sự mở rộng đô thị và thị xã, cùng với sự gia tăng dân số và công nghiệp hóa đã gây ra hiện trạng thiếu nhà ở và lực lượng lao động. Xuất phát từ thực tế này, các vấn đề về môi trường đã được quan tâm như: khói, bụi, tiếng ồn, chất đốt... tất cả các vấn đề này đều có liên quan đến các vấn đề sức khỏe và xã hội. Cũng từ đây các luật định về hạn chế và khắc phục các trở ngại đã được ra đời. Trong đầu thế kỹ XX cho đến những năm bảy mươi, việc bảo vệ môi trường và bảo tồn tự nhiên đã được phát triển rộng rải. Một ví dụ điển hình vào thời điểm này là chính phủ Hà Lan đã có quyết định sử dụng hồ gần thủ đô Amsterdam để làm hồ chứa các chất thải công nghiệp ở vùng này. Những người dân quanh vùng đã lên tiếng phản đối và họ tự thành lập hiệp hội bảo vệ môi trường và cũng vì thế dự án này đã được hũy bỏ. Từ những hoạt động mở đầu như vậy đã đưa đến kết quả là, năm 1972 Liên hiệp quốc đã tổ chức hôi nghị về môi trường, là cơ sở quan trọng cho việc thiết lập chính sách môi trường thế giới và đây cũng là chương trình môi trường đầu tiên của Liên hiệp quốc. Năm 1973 Hội đồng chung Châu Âu lần đầu tiên đã xây dựng Chương trình bảo vệ môi trường. Đây là một dấu hiệu tốt cho sự phát triển các hoạt động bảo vệ môi trường trên cơ sở của phát luật.


VII.2.2 Vai trò cuả luật pháp trong công tác bảo vệ môi trường

Để hiểu rỏ vai trò cuả pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường, ta có thể đặt câu hỏi tại sao chúng ta cần đến luật pháp để bảo vệ môi trường?

- Lý do cơ bản nhất đó là dựa trên nền tảng dân chủ. Điều này có liên quan đến nhân quyền và quyền tự do của công dân. Chính phủ không thể bắt buộc hay ra lệnh đối với mọi công dân mà không dựa trên cơ sở của luật pháp. Vì vậy tất cả các kiểu loại nhà nước hay các hoạt động của mọi công dân đều phải dựa trên cơ sở của pháp luật.

- Trong thế giới vật chất con người luôn tồn tại và có nhiệm vụ duy trì nòi giống. Vấn đề mà con người cần thiết để hiện hữu trên trái đất đó là: không khí sạch, nước sạch, độ phì của đất, an toàn thực phẩm... , muốn được như vậy con người cần phải có luật pháp để tư vấn cho họ .

- Luật pháp còn là công cụ để bảo vệ những việc làm đúng và các hoạt động tiên phong khác.


VII.2.3 Tác động của luật môi trường

Từ khi ra đời cho đến nay luật môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường và không thể thiếu trong hoạt động của các chương trình bảo vệ môi trường thế giới. Tất cả mọi người đều thấy tầm quan trọng của luật môi trường với các lý do sau:

- Luật cung cấp nền tảng luật định đối với sự can thiệp của nhà nước nhằm bảo đảm tính an toàn, công bằng và dân chủ của nhà nước đối với mọi công dân.

- Luật cung cấp những công cụ của pháp luật để giúp nhà nước định ra các chính sách môi trường

- Luật cung cấp các cơ sở pháp lý để duy trì tính an toàn và tiêu chuẩn môi trường

- Luật mang tính công bằng cho các dân sự khi họ có sự cạnh tranh về quyền phát thải các chất thải.

- Luật còn là bằng chứng nhận và đảm bảo tính an toàn khả thi cho tất cả các đảng phái có liên quan.


VII.2.4 Thẩm quyền ban hành luật môi trường

Thẩm quyền ban hành luật môi trường đó là sự tác động qua lại giữa nhà nước và nghi viện là nơi đại diện cho quyền lực. Tùy theo điều kiện chính trị của từng quốc gia mà sự ban hành một luật mới sẽ mau hay chậm. Ví dụ như ở Hà Lan khi họ ban hành bộ luật bảo vệ đất họ phải mất thời gian hơn mười năm. Đây cũng là một trong những lý do rất thông thường đối với các luật môi trường. Thường khi tiến hành ban hành luật định về môi trường họ thường kết hợp ảnh hưởng của các tổ chức bảo vệ môi trường trong khu vực, trong nước ngoài nước và các tổ chức trên toàn cầu. Đây cũng là yếu tố đảm bảo cho tính bền vững và khả thi của luật pháp.

Ở nước ta thẩm quyền ban hành luật là quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước ta. Cùng với nhà nước và nhân dân, quốc hội sẽ là cơ quan tối cao dự thảo và ban hành các luật lệ, nhằm tạo mọi điều kiện tốt nhất để người dân đóng góp tốt hơn cho đất nước.


VII.2.5 Các luật có liên quan môi trường đã được ban hành ở nước ta

VII.2.5.1 Luật bảo vệ môi trường

Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 12 năm 1993 đã đặt nền móng cho việc hình thành hệ thống pháp luật về môi trường ở nước ta. Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản về môi trường, bảo vệ môi trường được định nghĩa một cách chuẩn tắc, quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân được qui định cụ thể và rõ ràng. Qua hơn 10 năm thực hiện Luật, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội được nâng lên. Mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế. Công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đạt được nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, trước những áp lực của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự diễn biến sôi động và toàn diện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi.

Một là, bản thân Luật Bảo vệ môi trường có những bất cập cần phải được điều chỉnh: nhiều quy phạm còn ở mức khung, thiếu cụ thể và chưa rõ ràng nên hiệu lực thi hành thấp; chưa luật hoá các chính sách lớn, quan trọng về phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hai là, môi trường nước ta tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc đã đến mức báo động: đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh; không khí ở nhiều khu đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; khối lượng phát sinh và mức độ độc hại của chất

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/11/2023