Đất Bị Ô Nhiễm Bởi Chất Thải Nguy Hại (Lê Văn Khoa, 2005)

VI.3.3 Thu hồi và tái chế‌

Tái chế là hoạt động thu hồi lại từ chất thải các thành phần có thể sử dụng để chế biến

thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sinh hoạt và sản xuất. Đây là công việc ưu tiên hàng đầu trong lĩnh vực quản lý và xử lý rác nhằm thỏa mãn hai mục tiêu: bảo vệ tài nguyên thiên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hoạt động tái chế cũng cần chi phí để thu gom, vận chuyển, chế biến và ngăn chặn các tác động tiêu cực đến môi trường do quá trình tái chế gây ra. Do đó, nếu như chi phí tái chế cao hơn lợi ích tái chế thì lúc đó hoạt động tái chế không được coi là hoạt động có ích. Sơ đồ hệ thống thu hồi các chất và dòng lưu chuyển các nguồn vật liệu được thể hiện hình sau.



Sản xuất

Chất thải

Phân phối

Môi trường toàn cầu (Hệ sinh thái)

Tiêu dùng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên kinh tế

CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 18

Hoạt động kinh tế “kinh tế thị trường”

Các nguồn tài nguyên tái chế

Tái sản xuất

Tài nguyên có thể tái chế

Tác động môi trường

Tiêu hủy cuối cùng (chôn lấp)

Xử lý trung gian “Xử lý tốt hơn” (Tái chế)

Tái chế

Các tác động môi trường

Hình 6.12 Dòng lưu chuyển các vật liệu

(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ & CSV, 2001)

VI.4 CÔNG CỤ PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH TRONG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN‌

VI.4.1 Các công cụ pháp lý trong công tác quản lý chất thải rắn

Ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường lao động là một trong những nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng tới sức khỏe, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động, rộng hơn là ảnh hưởng tới sức khỏe của cả cộng đồng và môi trường. Việc tìm kiếm các giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm vì thế luôn là mối quan tâm của tất cả mọi người mà trước hết là của các cơ quan xã hội. Xử lý ô nhiễm môi trường gây ra bởi chất thải không thể chỉ trông chờ vào một vài biện pháp cụ thể nào đó mà cần phải thực hiện đồng bộ: từ các giải pháp quản lý vĩ mô như hoạch định chính sách, luật pháp, các quy chế, quy định.., các giải pháp quy hoạch tổng thể cho cả khu công nghiệp cho đến các giải pháp cụ thể về công nghệ và xử lý “cuối đường ống”.

Trên thế giới người ta thường sử dụng 2 công cụ quản lý môi trường: công cụ pháp lý và công cụ kinh tế. Công cụ pháp lý là chính phủ đặc ra các tiêu chuẩn, các quy định, chính sách để các cơ quan quản lý về môi trường dựa theo đó làm cơ sở để kiểm tra, thẩm định, đánh giá và xử phạt. Công cụ kinh tế là dùng các chính sách về lệ phí, thuế, vốn nhằm kích thích hoặc cưỡng bức doanh nghiệp thực hiện Luật BVMT.

VI.4.1.1 Các quy định và tiêu chuẩn môi trường

Tiêu chuẩn môi trường là công cụ chính sách để điều chỉnh chất lượng môi trường. Trong tiêu chuẩn môi trường có các loại tiêu chuẩn như: Tiêu chuẩn quy định về các giá trị về nồng độ hoặc số lượng của các chất thải lỏng, rắn hoặc khí trước khi thải vào môi trường; tiêu chuẩn lấy mẫu và phân tích; tiêu chuẩn thiết kế các thiết bị xử lý... có tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và tiêu chuẩn bộ hoặc ngành. Thường thì tiêu chuẩn gắn với các quy định về hình phạt (phạt tiền, đóng cửa cơ sở sản xuất thậm chí truy tố trước pháp luật).

VI.4.1.2 Các loại giấy phép môi trường

Các loại giấy phép này do các cơ quan quản lý Nhà nước cấp cho các cơ sở sản xuất, cho phép các cơ sở này được hành nghề mà không gây nguy hại đến môi trường, ví dụ: giấy thẩm định môi trường, giấy thỏa thuận môi trường, giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường...tùy theo loại hình và quy mô sản xuất mà các cơ quan quản lý có các yêu cầu khác nhau. Theo Thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT về hướng dẫn và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường có quy định:

- Các dự án đầu tư có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng, dễ gây ra sự cố môi trường, khó khống chế và khó xác định tiêu chuẩn môi trường thì phải lập và trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Các dự án còn lại sẽ đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường trên cơ sở tự xác lập và phân tích báo cáo đánh giá tác động môi trường của mình.

- Phiếu xác nhận bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường là căn cứ pháp lý về mặt môi trường để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét và cho phép dự án thực hiện các bước tiếp theo.

VI.4.1.3 Kiểm soát môi trường‌

Kiểm soát môi trường chính là khống chế ô nhiễm, ngăn ngừa hoặc loại bỏ chất thải nguy hại ngay tại nguồn phát sinh, làm sạch ô nhiễm, thu gom, tái sử dụng và xử lý chất thải. Kiểm soát môi trường là kiểm soát nguồn thải vào môi trường: các ống khói, các cống xả nước thải, các nguồn rác thải. Muốn quản lý được các nguồn này, buộc các cơ quan quản lý về môi trường tiến hành thống kê được các cơ sở sản xuất và các dòng chất thải đổ ra. Căn cứ thống kê là các báo cáo đánh giá chất lượng môi trường. Trên cơ sở hồ sơ kiểm kê nguồn thải có thể xác định được các khu vực cơ nguy cơ cao về ô nhiễm hoặc sự cố môi trường để từ đó có sự chú ý hoặc đầu tư nhất định trong việc phòng ngừa ô nhiễm hoặc kiểm soát nguồn thải.

VI.4.1.4 Thanh tra môi trường

Thanh tra môi trường là biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm về BVMT, góp phần quan trọng đảm bảo cho hiệu lực Luật BVMT được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Các cơ sở pháp lý cho việc hình thành các tổ chức thanh tra về BVMT gồm: Pháp lệnh thanh tra, Luật BVMT, ngoài ra còn các văn bản và quy định khác như: tiêu chuẩn môi trường, cam kết BVMT... đó là những công cụ để tổ chức thanh tra đánh giá mức độ thực hiện Luật BVMT.

VI.4.1.5 Đánh giá tác động môi trường

Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là một quá trình xác định, miêu tả và đánh giá ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của một dự án đến sức khỏe con người, đến động vật và thực vật, đến môi trường đất, nước, không khí, đến cảnh quan, đến kinh tế - xã hội của khu vực có dự án, và những biện pháp áp dụng để ngăn ngừa hoặc khống chế các ảnh hưởng có hại tới các yếu tố đó.

VI.4.1.6 Luật bảo vệ môi trường

Luật bảo vệ môi trường có đề cập một số qui định cụ thể về quản lý chất thải:

- Việc đặt các điểm tập trung, bãi chứa, nơi xử lý, vận chuyển rác và chất gây ô nhiễm môi trường phải tuân theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường (BVMT) và chính quyền địa phương.

- Đối với nước thải, rác thải có chứa chất độc hại, nguồn gây dịch bệnh, chất dễ cháy, dễ nổ, các chất thải không phân hủy được phải có biện pháp xử lý trước khi thải. cơ quan quản lý Nhà nước về BVMT quy định danh mục các loại nước thải, rác thải nói ở khoản này và giám sát quá trình xử lý trước khi thải.

Các văn bản dưới luật:

Nghị định số 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT:

- Mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, bệnh viện, khách sạn, nhà hàng... có các chất thải ở dạng rắn, lỏng, khi cần phải tổ chức thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi thải ra ngoài phạm vi quản lý của cơ sở mình. Công nghệ xử lý các loại chất thải rắn trên phải được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.

- Nghiêm cấm việc xuất, nhập khẩu chất thải có chứa độc tố hay các vi trùng gây bệnh có thể gây ô nhiễm môi trường.

- Bộ KHCN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ tổ chức và chỉ đạo thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường.

- Tổ chức, quyền hạn, phạm vi hoạt động của thanh tra chuyên ngành về BVMT do Bộ trưởng Bộ KHCN&MT và Tổng thanh tra Nhà nước thống nhất quy định, phù hợp với các quy định của Luật BVMT và Pháp lệnh thanh tra (Điều 38).

Các tiêu chuẩn chất thải rắn trong quá trình sản xuất

- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6696:2000. Chất thải rắn-Bãi chôn lấp hợp vệ sinh – Yêu cầu chung về BVMT

- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6705:2000. Chất thải rắn không nguy hại-Phân loại

- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6706:2000. Chất thải nguy hại – Phân loại

- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 6707:2000. Chất thải nguy hại – Dấu hiệu cảnh báo, phòng ngừa.

- Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN ISO 14001:1998. Hệ thống quản lý môi trường-Quy

định và hướng dẫn sử dụng.


VI.4.2 Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam

VI.4.2.1 Xây dựng chiến lược quản lý CTR

- Dự báo lượng thải căn cứ vào sự phát triển của sản xuất

- Quy hoạch các khu công nghiệp, dự kiến cho việc thu gom, vận chuyển, chôn lấp

- Đầu tư trang thiết bị cho việc thu gom và vận chuyển CTR

- Lựa chọn công nghệ xử lý hợp lý

- Lập kế hoạch tài chính cho việc xử lý, tái sử dụng

- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, đặc biệt là áp dụng chiến lược sản xuất sạch.

VI.4.2.2 Tổ chức thu gom và phân loại tại nguồn

Đây là khâu hết sức quan trọng trong hệ thống quản lý CTR. Thu gom tốt sẽ đảm bảo môi trường trong sạch, làm sạch cảnh quan. Đồng thời với thu gom là phân loại tại nguồn, tách rác thải nguy hại ra khỏi rác thải không nguy hại để dễ xử lý: Rác thải không nguy hại có thể đem chôn lấp trong khi đó rác thải nguy hại phải có biện pháp xử lý riêng, tùy thuộc tính chất của chất thải (Bộ Tài Nguyên & MT, 2002).

VI.4.2.3 Lựa chọn công nghệ xử lý

- Chôn lấp: là hình thức xử lý CTR phổ biến nhất, rẻ tiền nhất nhưng cũng tốn diện tích đất nhất. điều quan trọng là phải lựa chọn địa điểm chôn lấp phù hợp: Cách xa khu dân cư, khu vui chơi giải trí, du lịch, cách xa nguồn nước nhưng phải thuận lợi cho sự vận chuyển. Ngày nay, những bãi chôn lấp hợp vệ sinh là phải bao gồm các lớp lót đáy chống thấm, hệ thống thu nước rác, hệ thống thu khí rác, hệ thống qaun trắc thường xuyên để giám sát môi trường nước ngầm, không khí, đất.

- Chế biến CTR hữu cơ thành phân rác: trong thành phần của CTR thường chứa lượng rác hữu cơ cao, dễ phân hủy vi sinh. Khi ủ các loại rác này với các chế độ thích hợp sẽ chuyển hóa chúng thành phân rác, làm chất độn cho đất, giúp cho việc cải tạo đất rất tốt. Phương thức này ở nước ta chưa phổ biến, mới có 2 thành phố là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh xây dựng xí nghiệp loại này nhưng công suất xử lý nhỏ, chủ yếu là rác sinh hoạt.

- Tái sử dụng và tái chế: CTR từ công nghiệp có thể rái sử dụng được rất nhiều, ví dụ sắt thép vụn có thể nấu lại, vải vụn làm ruột chăn đệm, đồ nhựa tái sinh... Phương thức này là cách tốt nhất trong việc tiết kiệm nguyên liệu, đỡ diện tích chôn lấp hoặc các hình thức xử lý khác. Rất cần khuyến khích phương thức này.

- Thiêu đốt: nhiều chất thải rắn nguy hại không thể chôn lấp mà phải dùng biện pháp thiêu đốt. Ưu điểm của phương pháp này là xử lý một cách triệt để nguồn lây nhiễm bệnh tật như HIV/ASDS, viêm gan, viêm não, lao, thương hàn, tả... hoặc các hóa chất độc hại mà nếu chôn lấp không tốt sẽ gây ô nhiễm nước ngầm; giảm từ 75% đến 95% theo thể tích lượng rác chôn lấp. Như vậy có thể tiết kiệm được rất lớn diện tích đất để làm bãi chôn lấp; có thể tái sử dụng nhiệt sinh ra do quá trình đốt để đun nước nóng, hơi nước và chuyển hóa thành điện. Nhược điểm là vốn đầu tư ban đầu cao, giá thành xử lý cũng cao, cao hơn chôn lấp từ vài lần đến hàng chục lần. Ngoài ra việc xử lý khí thải cũng phải cẩn thận vì trong khí thải có chứa dioxin và furan, là những chất có tiềm năng gây ưng thư cao.

-

VI.5 TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI

VI.5.1 Khái niệm về chất thải nguy hại

Chất thải độc hại là các chất thải có thể được sinh ra do các hoạt chất công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp. Các chất thải độc hại có thể là các chất rắn, chất lỏng, chất khí hoặc chất sệt. Trong định nghĩa chất thải độc hại không nói đến các chất thải rắn sinh hoạt, nhưng thật ra rất khó phân biệt một cách toàn diện chất thải công nghiệp với chất thải sinh hoạt. Chất thải độc hại không bao gồm chất thải phóng xạ vì loại chất thải này đã được hầu hết các nước phân cách và tổ chức quản lý riêng. Độ độc hại của các chất thải độc hại rất khác nhau, có chất gây nguy hiểm cho con người như các chất cháy có điểm cháy thấp, các chất diệt côn trùng, các vật liệu clo hoá phân huỷ chậm, có chất gây tác động nhỏ hơn nhưng khối lượng của nó lại là vấn đề lớn như các chất thải hầm mỏ, xỉ, thạch cao phốt phát cũ hoặc các sệt hydroxyt khác. Những chất thải có chứa những hoá chất không tương hợp có thể gây nổ, bắt cháy. Tiếp xúc với axít hoặc kiềm mạnh gây bỏng da. Da hấp thụ một số thuốc trừ sâu có thể gây ngộ độc cấp tính. Những thùng, hòm chứa chất thải hoá chất nếu không được xử lý, để bừa bãi vào nơi không được bảo vệ tốt có thể gây các tai nạn ngộ độc nghiêm trọng (Hodgson, & Levis, 1987).

Thông thường đây chính là các chất có mang 1 trong các đặc tính sau:

- Dễ cháy

- Dễ nổ

- Làm ngộ độc

- Ăn mòn

- Dễ lây nhiễm

Một số chất nguy hại điển hình:

- Acid và kiềm

- Chất oxy hoá

- Kim loại nặng

- Dung môi

- Cặn dầu thải

- Amiăng

Nguồn phát sinh các chất này từ hộ gia đình, công nghiệp, thương nghiệp, bệnh viện và xí nghiệp dược. Ngoài ra một số chất như một vài sản phẩm hoá học cực kỳ nguy hiểm như áenic acid, cyanid, và nhiều loại thuốc trừ sâu, benzen, creosote, phenol, và toluen. Thực tế các chất thải độc hại mới chỉ được quan tâm tới từ sau năm 1960 trở lại đây. Việc kiểm tra chất thải độc hại cũng gây tốn kém, nhưng kinh nghiệm ở nhiều nước phát triển cho thấy việc xử lý chất thải độc hại khi đã gây ô nhiễm còn tốn tiền của và thời gian hơn nhiều, có khi gấp từ 10 đến100 lần. Do vậy, việc kiểm tra chất thải độc hại thường chỉ được quan tâm sau khi xảy ra một thảm hoạ hoặc sau một đe doạ thảm hoạ môi trường. Sau sự kiện những người dân chết do ăn phải cá bị nhiễm thuỷ ngân trong nước biển ở Minamata, Nhật là nước đầu tiên đưa ra việc kiểm tra đầy đủ các chất thải độc hại (1960). Nước Anh, sau sự bất bình của công chúng khi phát hiện những thùng rỗng có chứa muối xyanua trên đất hoang mà trẻ em đã chơi trên đó, Uỷ ban kiểm tra chất thải độc hại được thành lập và sau đó đã được pháp luật thông qua. Nước Mỹ, năm 1976 hệ thống kiểm tra chất thải độc hại được thành lập do sự phản đối của công chúng vì sự ô nhiễm gây nên bởi các đống rác không được kiểm soát (Lê Huy Bá, 2002).

VI.5.1.1 Phương thức gây ô nhiễm của chất thải độc hại

Các chất thải độc hại có thể gây ô nhiễm môi trường trực tiếp như bay hơi hoá chất trong khí quyển hoặc có thể gây ô nhiễm gián tiếp qua vận chuyển của gió hoặc bề mặt nước. Vấn đề quan trọng không phải chỉ phụ thuộc vào nơi đổ thải và tình trạng đất ở bên dưới.

- Đất bị ô nhiễm:

Khi đất bị ô nhiễm chất thải nguy hại sẽ làm cho đất mất đi chức năng vốn có của đất, những nơi đó hầu như không có thảm thực vật che phủ, đất bị biến đổi thành màu đen

các loài sinh vật đất hầu như biến mất (Hình 6.13)

Hình 6.13 Đất bị ô nhiễm bởi chất thải nguy hại (Lê Văn Khoa, 2005)

- Ô nhiễm nước bề mặt:

Bề mặt ngoài của nước ở gần chỗ chất thải có thể nhận những chất thải độc hại từ bề mặt chảy. Hơn nữa, dòng chảy đất - nước của các hoá chất cũng đưa ô nhiễm vào mặt nước. Trong điều kiện tiếp xúc không khí sẽ thúc đẩy quá trình phân huỷ hoá, hoá sinh các hợp chất hữu cơ. Quá trình bay hơi ở mặt nước cũng dễ hơn ở đất.

- Các đường ô nhiễm khác:

Các hợp chất hữu cơ có thể bay hơi trong không khí, gió có thể đưa chất thải độc hại vào môi trường, rau quả trồng gần nơi chất thải có thể hấp thụ những độc tố của chất thải.

VI.5.1.2 Phân loại chất thải độc hại

Chất gây cháy

- Là những chất lỏng có chứa ít hơn 24% cồn và điểm bốc cháy dưới 60oC.

- Là những chất khí có thể cháy khi bị nén.

- Là chất oxy hoá

Chất ăn mòn

Một chất thải biểu hiện đặc tính ăn mòn nếu có một trong các đặc điểm sau:

- Là dung dịch lỏng có pH< 2 hoặc pH> 12.5

- Chất lỏng ăn mòn thép ở tỷ lệ > 6,35 mm/năm ở nhiệt độ thí ngiệm là 55oC.

Chất phản ứng

- Không bền và trải qua sự biến đổi mạnh mẽ không có sự nổ.

- Hình thành những hổn hợp nổ tiềm ẩn với nước

- Là chất thải mang gốc cyanid hoặc sulphide, khi ở pH2-12.5 có thể sinh ra khí, hơi, khói ở một lượng đủ để gây nguy hiểm cho con người và MT

Chất gây nổ

- Có khả năng nổ hoặc phản ứng nổ nếu bị tác động với nguồn khởi đầu hoặc bị nung nóng trong điều kiện nén.

- Là chất nổ bị cấm đã được xác định trong quy tắc an toàn vận chuyển

- Có khả năng nổ hoặc phân huỹ nổ hoặc phản ứng nổ ở điều kiện nhiêt độ và áp suất tiêu chuẩn

Chất gây độc

Tất cả các chất có khả năng gây ung thư


VI.5.2 Tác hại của chất thải nguy hại

Tác động đến MT thường liên quan đến việc chôn lấp các chất thải nguy hại không đúng qui cách, có liên quan đến tác động tiềm tàng đối với nước mặt và nước ngầm. Ở Việt Nam nguồn nước mặt và nước ngầm thường được sử dụng để làm nước uống sinh hoạt, nước phục vụ cho SXNN. Bất cứ sự ô nhiễm nào các nguồn nước này đều gây ảnh hưởng tiềm tàng đến sức khoẻ nhân dân địa phương. Mặt khác nước ta, việc phân lập và QLCTNH còn nhiều bất cập. do vậy việc ảnh hưởng đến các nguồn nước và MT là rất lớn. Chôn lấp CTNH liên quan đến vấn đề sau:

- Ô nhiễm nước ngầm là do việc lưu giũ lâu dài CTNH không được kiểm soát, chôn lấp tại chỗ, chôn lấp tại nơi chôn rác, hoặc để lấp các vùng đất trũng.

- Bản chất ăn mòn tiềm tàng của các chất độc hại có thể phá huỷ hệ thống cống cũng như ngộ độc cho MTST

- Ô nhiễm nước mặt và nước ngầm là do việc thải các chất độc hại không được xử lý

đầy đủ, hoăc do việc xử lý chất thải CN không đúng với khoa học

Ở Việt Nam hầu hết các chất thải nguy hại đều được gom chung với rác thải thông thường và lại được tập trung ở bải rác. Hầu hết các chất thải không được phân lập tại nguồn. Trông trường hợp chất thải lưu giữ qua lâu sẽ gây nên sẽ tạo ra sự rò rĩ quá lớn và tạo ra rủi ro và nguy hiểm đến sức khỏe cho khu vực chung quanh. Một số sơ đồ dưới đây thể hiện sự di chuyển và biến đổi CTNH đối với MT


VI.5.3 Tác động chất thải nguy hại đối với sức khỏe

VI.5.3.1 Chất thải công nghiệp

Ô nhiễm không khí do công nghiệp gây ra thiệt hại rất lớn về nền kinh tế, bệnh tật cho con người và thảm thục vật, Ví dụ ở Châu Âu do ô nhiễm KK mà diện tích cây xanh bị thu hẹp khoảng 40%. Ngoài ra các sự cố rò rỉ vủa các nhà máy sản xuất hoá chất hay điện hạt nhân vẫn luôn là mối đe doạ và thảm hoạ của nhân loại

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 03/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí