nghiệp hiện có ở VN tiêu thụ quá nhiều năng lượng so với số lượng thành phẩm thu hoạch được.
3. Việc tiêu thụ nhiều năng lượng trong quá trình sản xuất là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường cao, đặc biệt ở những khu công nghiệp lớn như đồng bằng sông Hồng, TpHCM, và vùng Bà Rịa, Vũng Tàu, Đồng Nai, Sông Bé. Về hệ thống giao thông vận tải, theo thống kê thì ở các thành phố lớn đường xá chỉ đáp ứng 35 - 40% so với nhu cầu cần thiết. Do đó, tình trạng ứ đọng, kẹt xe làm gia tăng ô nhiễm bụi (PM 10), khí thải và tiếng ồn. Hàng năm VN tiêu thụ 1,5 triệu tấn xăng và dầu diesel. Phẩm chất xăng xử dụng ở VN không đúng tiêu chuẩn , thông thường độ octan chỉ đạt được đến 83, tức là còn quá nhiều dư lượng chì và benzene, cao gấp 10 lần tiêu chuẩn của xăng có độ octan cho phép tối thiểu là 87 độ octan của các quốc gia Tây Phương.
4. Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp với 74% dân sống ở nông thôn, chiếm hơn 60% lực lượng lao động không có tay nghề cao. Nông dân lại bị thiếu hướng dẫn, thiếu thông tin cho nên trong nông nghiệp cũng như việc nuôi trồng thủy sản, nhà nông VN ngày càng xử dụng phân hóa học và các loại hóa chất bảo vệ thực vật ngày càng cao và càng tùy tiện, không tuân thủ những yêu cầu kỹ thuật và chăn nuôi. Đây cũng là một sức ép hết sức quan trọng lên ô nhiễm môi trường. Năm 2005, VN xuất cảng 4,5 triệu tấn gạo và gần 2 triệu tấn thủy sản đủ loại. Ngược lại việc khai thác thủy sản đã để lại hai hậu quả chính là nguồn nước ở những nơi nuôi trồng, khai thác, và chế biến đã bị ô nhiễm trầm trọng với hơn 12 triệu m3 nước thải hàng năm. Lượng thủy sản giảm dần, sản lượng khai thác ở những năm gần đây chỉ còn khoảng 40% so với thời kỳ trước năm 1990. Tệ hại hơn nữa là do việc xử dụng các phương pháp đánh bắt hủy diệt đã bị LHQ cấm như dùng chất nổ, chất độc cyanide (CN-) làm tiêu diệt nguồn cá và hệ sinh thái đặt biệt như nguồn san hô dọc theo bờ biển, môi trường sống chính của tôm cá.
5. Giống như những quốc gia đang phát triển, VN có những bờ biển dài, đẹp, cát trắng,cùng những đão nhỏ không xa bờ. Đây là những lợi điểm để khai thác kỹ nghệ du lịch hầu thu hút ngoại tệ nặng của du khách quốc tế. Do đó, nhiều khu nghĩ mát đã được xây dựng dọc bờ biển và trên các đão nhỏ. Việc xây dựng trên không chú trọng đến đầu tư về xử lý nước thải, cho nên bờ biển ngày càng bị ô nhiễm chung quanh các khu du lịch, làm hủy diệt hệ sinh thái của từng vùng riêng rẽ, cũng như hủy diệt các nguồn tôm cá sống gần bờ.
6. Đô thị ở những vùng phát triển kinh tế xã hội mạnh ở cả Bắc, Trung và Nam và các đão lớn như Phú Quốc, Côn Sơn, Cát Bà....Ở những nơi nầy kinh tế tăng trưởng nhanh so với vùng nông thôn. Như quá trình phát triển nhanh nầy làm cho đất đô thị bị khai thác triệt để, làm giảm diện tích cây xanh, sân giải trí, và các mặt nước ao hồ trong thành phố. Điều nầy làm giảm phẩm chất không khí thở và thường hay xảy ra tình trạng úng ngập khi có mưa. Thêm nữa, tốc độ phát triển hạ tầng cơ sở như giao thông, cầu cống không theo kịp mức gia tăng dân số cho nên đây cũng là một sức ép lên môi trường quan trọng.
7. Hội nhập kinh tế thế giới cũng là một bất cập ảnh hưởng lên môi trường, Việt Nam đang cố gắng cải tổ, điều chỉnh các luật lệ để đi vào cuộc chơi kinh tế thế giới là gia nhập Tổ chức Thương mại Toàn cầu (WTO) cũng như trong Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), và các tổ chức thế giới khác như Ngân hàng Thế giới, Quỷ Tiền tệ thế giới v.v... Việc hội nhập đòi hỏi VN phải tuân thủ các luật định do sự đồng thuận của đa số các quốc gia hội viên trong tổ chức. Do đó, VN với một hệ thống luật lệ đầu tư, ngân hàng, môi trường, quy chế xuất nhập cảng v.v... còn quá nhiều lỏng lẻo, cần phải được sửa đổi để có thể hội nhập vào cuộc chơi chung. Việt Nam phải chấp nhận một số hy sinh để cải đổi cung cách quản lý vẫn còn lạc hậu. Đặc biệt hơn hết là việc hội nhập vào thị trường thế giới VN phải chấp nhận nguy cơ ô nhiễm môi trường quốc nội do phát triển và do do các cuộc trao đổi về đầu tư sản xuất. Vì thiếu quản lý chặt chẽ cho nên hiện tại VN đang biến thành một bãi thải thiết bị công nghệ lạc hậu khổng lồ và là nơi tiêu thụ những mặt hàng hóa kém phẩm chất, không bảo đãm yêu cầu của môi trường.
VII.5. CHÍNH PHỦ VÀ MÔI TRƯỜNG
- Nhà nước nên có những hoạt động thiết thực và chính sách đúng đắn và hiệu quả để cho chi phí vừa đủ thấp và lợi nhuận vừa đủ cao, nhằm kích thích sản xuất mà không gây thiệt hại hay thiệt hại ít nhất cho môi trường.
Có thể bạn quan tâm!
- CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 20
- CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 21
- CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 22
- CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG Biên soạn Ts. Bùi Thị Nga 2008 - 24
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
- Đánh thuế môi trường thông qua tỉ lệ phát thải của nhà máy hay xí nghiệp.
- Có qui định nghiêm nhặt cho những vùng chuyển đổi hay những vùng mang tính chất duy trì bảo tồn.
- Đánh giá mọi vấn đề theo cùng một kiểu và cùng một tiêu chí.
- Phân tích lợi nhuận trên cơ sở bình đẳng.
- Tăng cường vai trò của các tổ chức trung gian phi chính phủ: các dân tộc, các tổ chức môi trường, khoa học, thương mại, chính quyền địa phương, các liên đoàn thương mại.
- Xây dựng và phát triển khoa học, nhận thức quần chúng, giáo dục tuyên truyền.
- Chiến lược kiểm định toàn cầu để tăng cường dữ liệu về thay đổi khí hậu.
- Vấn đề tài chính trong công cuộc thực hiện phát triển bền vững
VII.6. GIÁO DỤC VÀ MÔI TRƯỜNG
Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái". Mục đích của giáo dục môi trường nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo tồn, sử dụng môi trường theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai, kể cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng các cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, nó bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng, có những động lực và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
Có nhiều loại hình giáo dục môi trường đã và đang được áp dụng rộng rãi:
- Giáo dục môi trường, nhằm cải thiện sự hiểu biết về các tình trạng môi trường, xây dựng mối quan hệ giữa con người và môi trường chung quanh họ. Giáo dục cộng đồng rộng rải trong các loại trường học.
- Khả năng nhận biết các vấn đề môi trường của cộng đồng thông qua các hoạt động của họ trong thực tế. Đây là hình thức huấn luyện hiệu quả nhất
- Nâng cao nhận thức môi trường cho các nhà khoa học trong các lĩnh vực khác như: kinh tế, nhà báo, nhà luật học, các nhà xã hội học
VII.7. GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC VỀ MÔI TRƯỜNG
VII.7.1 Khái niệm sản xuất sạch hơn (SXSH)
Sản xuất sạch hơn là một trong những giải pháp chiến lược môi trường nhằm tránh ô nhiễm bằng cách sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách có hiệu quả nhất. Ðiều này có nghĩa là thay vì bị thải bỏ sẽ có thêm một tỷ lệ nguyên vật liệu nữa được chuyển vào thành phẩm. Các khái niệm tương tự với sản xuất sạch hơn là:
- Theo định nghĩa của Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP), SXSH là việc áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường vào các quá trình sản xuất, sản phẩm và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường. SXSH có ý nghĩa đối với tất cả các cơ sở công nghiệp, không phụ thuộc vào quy mô, mức độ tiêu thụ nguyên, nhiên liệu. Phần lớn các doanh nghiệp áp dụng SXSH đều có thể giảm lượng nguyên nhiên liệu tiêu thụ từ 10 đến 15%. Các lợi ích chính của việc áp dụng SXSH có thể tóm tắt như sau:
+ Đối với quá trình sản xuất: SXSH bao gồm bảo toàn nguyên liệu và năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc hại, giảm lượng và tính độc hại của tất cả các chất thải ngay tại nguồn thải.
+ Đối với sản phẩm: SXSH bao gồm việc giảm các ảnh hưởng tiêu cực trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm, từ khâu thiết kế đến thải bỏ.
+ Đối với dịch vụ: SXSH đưa các yếu tố môi trường vào trong thiết kế và phát triển các dịch vụ.
- Sản xuất sạch hơn là tránh ô nhiễm bằng cách sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách có hiệu quả nhất. Ðiều này có nghĩa là thay vì bị thải bỏ sẽ có thêm một tỷ lệ nguyên vật liệu nữa được chuyển vào thành phẩm. Ðể đạt được điều này cần phải phân tích một cách chi tiết và hệ thống trình tự vận hành cũng như thiết bị sản xuất hay yêu cầu một đánh giá về sản xuất sạch hơn.
Về cơ bản, các khái niệm này đều giống với sản xuất sạch hơn; đều cùng có ý tưởng cơ sở là làm cho các doanh nghiệp hiệu quả hơn và ít ô nhiễm hơn. Sản xuất sạch hơn không giống như xử lý cuối đường ống, ví dụ như xử lý khí thải, nước thải hay bã thải rắn. Các hệ thống xử lý cuối đường ống làm giảm tải lượng ô nhiễm nhưng không tái sử dụng được phần nguyên vật liệu đã mất đi. Do đó, xử lý cuối đường ống luôn luôn làm tăng chi phí sản xuất. Trong khi đó, sản xuất sạch hơn mang lại các lợi ích kinh tế song song với giảm tải lượng ô nhiễm. Sản xuất sạch hơn đồng nghĩa với giảm thiểu chất thải và phòng ngừa ô nhiễm. Sản xuất sạch hơn cũng là một bước hữu ích cho hệ thống quản lý môi trường như ISO14000.
VII.7.2 Lợi ích của sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn có ý nghĩa đối với tất cả các cơ sở công nghiệp, lớn hay bé, tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng, nước nhiều hay ít. Ðến nay, hầu hết các doanh nghiệp đều có tiềm năng giảm lượng nguyên nhiên liệu tiêu thụ từ 10-15%. Kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng sản xuất sạch hơn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích về mặt môi trường. Các lợi ích này có thể tóm tắt như sau:
- Sử dụng nguyên liệu, nước, năng lượng có hiệu quả hơn, tái sử dụng phần bán thành phẩm có giá trị, giảm ô nhiễm. Giảm chi phí xử lý và thải bỏ các chất thải rắn, nước thải, khí thải. Tạo nên hình ảnh về mình tốt hơn; và cải thiện sức khoẻ nghề nghiệp và và an toàn.
- Tiếp cận tài chính dễ dàng hơn, các cơ quan tài chính ngày một nhận thức rõ sự nghiêm trọng của việc huỷ hoại môi trường và hiện đang nghiên cứu các dự thảo dự án mở rộng hoặc hiện đại hoá mà trong đó các khoản vay đều được nhìn nhận từ góc độ môi trường. Các kế hoạch hành động về sản xuất sạch hơn sẽ đem lại hình ảnh môi trường có lợi về doanh nghiệp của bạn tới các nhà cho vay, do đó sẽ tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn hỗ trợ tài chính.
- Các cơ hội thị trường mới và được cải thiện. Việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các vấn đề môi trường đã dẫn đến sự bùng nổ nhu cầu về sản phẩm xanh trên thị trường quốc tế. Chính vì vậy, khi đã có những nỗ lực nhận thức về sản xuất sạch hơn, sẽ có thể mở ra được nhiều cơ hội thị trường mới và sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn và có thể bán ra với giá cao hơn.
- Các doanh nghiệp thực hiện sản xuất sạch hơn sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, ví dụ như ISO14001, hoặc các yêu cầu của thị trường như nhãn sinh thái. Thực hiện đánh giá sản xuất sạch hơn sẽ giúp cho việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường như ISO 14001 dễ dàng hơn.
- Môi trường làm việc tốt hơn việc nhận thức ra tầm quan trọng của một môi trường làm việc sạch và an toàn đang ngày một gia tăng trong số các công nhân. Bằng cách đảm bảo các điều kiện làm việc thích hợp thông qua thực hành sản xuất sạch hơn, có thể làm tăng ý thức của các cán bộ, đồng thời xây dựng ý thức kiểm soát chất thải. Các hoạt động này sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được khả năng cạnh tranh.
- Các tiêu chuẩn môi trường về phát thải các chất thải (lỏng, rắn, khí) đang trở nên ngày một chặt chẽ hơn. Ðể đáp ứng được các tiêu này thường yêu cầu việc lắp đặt các hệ thống kiểm soát ô nhiễm phức tạp và đắt tiền. Sản xuất sạch hơn hỗ trợ cho việc xử lý các dòng thải, và do đó doanh nghiệp sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn thải một cách dễ dàng, đơn giản và rẻ tiền hơn. Sản xuất sạch hơn dẫn dến việc giảm chất thải, giảm lượng phát thải và thậm chí giảm cả độc tố theo qui luật vòng tròn.
VII.7.3 Các giải pháp về sản xuất sạch hơn
- Tránh các rò rỉ, rơi vãi trong quá trình vận chuyển và sản xuất, hay còn gọi là kiểm soát nội vi.
- Ðảm bảo các điều kiện sản xuất tối ưu từ quan điểm chất lượng sản phẩm, sản lượng, tiêu thụ tài nguyên và lượng chất thải tạo ra.
- Tránh sử dụng các nguyên vật liệu độc hại bằng cách dùng các nguyên liệu thay thế khác.
- Cải tiến thiết bị để cải thiện quá trình sản xuất.
- Lắp đặt thiết bị sản xuất có hiệu quả, và thiết kế lại sản phẩm để có thể giảm thiểu lượng tài nguyên tiêu thụ.
VII.7.4 Sản xuất sạch hơn trong chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam
Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25.6.1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chỉ thị là văn bản quan trọng thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với công tác BVMT. Chỉ thị đã vạch ra các nguyên nhân dẫn đến suy thoái môi trường, đề ra các mục tiêu, quan điểm, cũng như các giải pháp cơ bản đối với công tác BVMT, trong đó SXSH đóng vai trò quan trọng. Cụ thể Chỉ thị đã nêu rõ cần thiết phải “ban hành các chính sách về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích áp dụng các công nghệ sạch” và “áp dụng công nghệ sạch, ít phế thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng lượng” đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp. Đây là hai giải pháp trọng tâm để thực hiện thành công SXSH. Ngoài ra, còn có các chính sách tác động gián tiếp việc khuyến khích phát triển SXSH như: Quyết định 64/2003/QĐ-TTg ngày 22.4.2003 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng; Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13.6.2003 của Chính phủ về việc thu phí BVMT đối với nước thải. Do vậy sản xuất sạch hơn trong chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam được thực hiện theo các lộ trình dưới đây:
VII.7.4.1 Lộ trình SXSH ở Việt Nam
Chiến lược BVMT quốc gia đến 2010 và định hướng đến 2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 3.12.2003, là văn bản hết sức quan trọng trong việc định hướng công tác BVMT nước ta trong hơn một thập kỷ tới. Liên quan đến SXSH, Chiến lược đã nêu rõ các thách thức đối với môi trường Việt Nam trong thời gian tới là "trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường ở các cơ sở sản xuất, đặc biệt là ở các xí nghiệp vừa và nhỏ còn rất lạc hậu và thấp kém”, “khả năng tài chính của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp đều rất hạn hẹp, đặt ra thách thức rất lớn đối với môi trường nước ta". Ngoài ra, Chiến lược cũng khẳng định: "Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, nhiều thị trường tiềm năng trên thế giới, các bạn hàng quốc tế đã đưa ra các yêu cầu ngày càng cao về môi trường trong giao dịch thương mại. Đây là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước khi muốn mở rộng thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế". Chiến lược cũng đã đề ra 4 quan điểm chỉ đạo, trong đó "coi Khoa học và Công nghệ là công cụ hữu hiệu trong BVMT", cụ thể hơn là áp dụng SXSH để phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm: "Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ sạch, dây chuyền SXSH, sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu ít gây ô nhiễm và thân thiện với môi trường". Chiến lược đã đề ra các mục tiêu cụ thể cho công tác BVMT đến năm 2010 và 2020, trong đó có các mục tiêu về áp dụng SXSH. Có thể coi đây là lộ trình áp dụng SXSH ở nước ta trong thời gian tới.
VII.7.4.2 Mục tiêu đến 2010
- 100% cơ sở sản xuất xây dựng mới phải có công nghệ sạch hoặc có các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
- 50% cơ sở sản xuất, kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001.
- Xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên phạm vi toàn quốc theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22-4-2003 của Thủ tướng Chính phủ.
- Nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng sạch đạt 5% tổng năng lượng tiêu thụ hàng năm.
- 100% doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu áp dụng hệ thống quản lý môi trường.
VII.7.4.3 Mục tiêu đến 2020
- 80% cơ sở sản xuất, kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001.
- Hình thành và phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải để tái sử dụng, phấn đấu 30% chất thải thu gom được tái chế.
- 100% sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu và 50% hàng hoá tiêu dùng trong nội địa được ghi nhãn môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14021.
Tiến tới việc thực hiện lộ trình, Chiến lược đã xây dựng 36 chương trình đồng bộ về BVMT trong đó có hai chương trình ưu tiên về SXSH được thực hiện từ nay đến 2010 là: "Chương trình áp dụng công nghệ sản xuất sạch và thân thiện với môi trường" và "Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường". Chương trình thứ hai có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm xây dựng và thực hiện lộ trình áp dụng SXSH, trong đó Bộ Khoa học và Công nghệ giữ vai trò chủ đạo.
VII.7.4.4 Một số khó khăn trong việc áp dụng SXSH
Mặc dù đã có những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về áp dụng SXSH như là một công cụ trong BVMT, song trên thực tế việc áp dụng SXSH còn gặp rất nhiều khó khăn:
- Nhận thức của các doanh nghiệp về lợi ích của SXSH còn hạn chế. Việc tuyên truyền phổ biến SXSH cũng như thực hiện các mô hình trình diễn kỹ thuật hiện nay còn đang rất khiêm tốn. Cả nước ta hiện mới chỉ có 100 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp lớn áp dụng SXSH, trong khi phần lớn trong tổng số 600.000 doanh nghiệp là vừa và nhỏ đã và đang có các hoạt động gây tác động xấu đến môi trường.
- Nhiều doanh nghiệp không có đủ vốn để đầu tư cho SXSH, trong khi việc tiếp cận các nguồn tài chính còn gặp quá nhiều thủ tục phiền hà, rắc rối.
- Thiếu một cơ chế chính sách khuyến khích công bằng và thoả đáng. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có đủ vốn để đầu tư, song không mấy mặn mà với SXSH bởi họ không được trích lợi nhuận để tái đầu tư, thu nhập của người lao động không được cải thiện. Cá biệt có doanh nghiệp bỏ ra hàng tỷ đồng để đầu tư cho SXSH trong khi các doanh nghiệp khác tự do xả các chất ô nhiễm ra môi trường cũng chỉ bị xử phạt hành chính với số tiền phạt quá nhỏ, không đủ mức ngăn chặn.
- Nguồn nhân lực về SXSH còn rất hạn chế. Hiện nay mới chỉ có 150 người được đào tạo chuyên sâu, trong số đó chỉ khoảng 20% thực sự trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này.
-
VII.7.5 Công cụ hổ trợ cho sản xuất sạch hơn
Hạch toán quản lý Môi trường là một bộ công cụ hữu ích để nhận dạng và giảm thiểu các chi phí ẩn trong quá trình sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong việc lập kế hoạch phát triển kinh tế có xem xét đến yếu tố môi trường, thẩm định các dự án đầu tư môi trường.
Đa số các doanh nghiệp đều chỉ có thể nhận thấy các chi phí cho môi trường là các chi phí xử lý cuối đường ống (như chôn lấp chất thải rắn, xử lý nước thải...) trong khi thực tế có nhiều chi phí môi trường đã không được nhìn thấy rõ ràng để đưa vào hạch toán. Và Hạch toán Quản lý Môi trường (Environmental Management Accouting, viết tắt EMA) chính là công cụ giúp nhận dạng, phân tích tất cả các chi phí môi trường trong quá trình quản lý và sản xuất của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tính ra được giá thực của một sản phẩm doanh nghiệp bán ra trên thị trường để xác định được doanh thu cũng như lỗ lãi thực trong kinh doanh, từ đó có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong việc ra quyết định. Vậy thì Hạch toán Quản lý Môi trường (EMA) là gì?
“Hạch toán Quản lý Môi trường là việc nhận dạng, thu thập, phân tích và sử dụng 2 loại thông tin cho việc ra quyết định nội bộ:
- Thông tin vật chất về sử dụng, luân chuyển và thải bỏ năng lượng, nước và nguyên vật liệu (bao gồm chất thải).
- Thông tin tiền tệ về các chi phí, lợi nhuận và tiết kiệm liên quan đến môi trường.” (Nguồn: UNDSD, 2001).
Ngoài ra, EMA còn là cơ sở cho việc cung cấp thông tin ra bên ngoài phạm vi doanh nghiệp đến các bên liên quan như: các ngân hàng – tổ chức tài chính, các cơ quan quản lý môi trường, cộng đồng dân cư… (như báo cáo tài chính, báo cáo môi trường của doanh nghiệp).
Các lợi ích của Hạch toán Quản lý Môi trường:
- Các doanh nghiệp sẽ thu được lợi ích từ việc áp dụng EMA theo nhiều cách khác nhau. Bằng việc nhận dạng và giảm thiểu các chi phí liên quan đến môi trường, EMA sẽ làm gia tăng lợi nhuận, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả hoạt động môi trường, hỗ trợ quá trình ra quyết định và tăng cường mối quan hệ đối với cộng đồng.
- Tăng lợi nhuận thông qua giảm thiểu chi phí: ảnh hưởng của các vấn đề môi trường trong các chi phí sản xuất thường không được tính đến hoặc chưa được tính toán đầy đủ. Các chi phí môi trường có thể nhìn thấy được (hữu hình) là các chi phí xử lý cuối đường ống (xử lý nước thải, chôn lấp chất thải rắn...) chỉ là phần nổi của tảng băng, chúng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với các chi phí môi trường không nhìn thấy được (ẩn) là các chi phí không-tạo-ra sản phẩm (nguyên vật liệu, năng lượng, máy móc, nhân công... đóng góp vào việc tạo ra chất thải). EMA sẽ cho phép nhận dạng, phân tích và tính toán các chi phí ẩn này để từ đó đề xuất các cơ hội giảm thiểu. Chẳng hạn, việc giảm thiểu chất thải rắn không chỉ giảm chi phí tiêu hủy nó mà còn giảm được chi phí mua nguyên vật liệu đầu
vào, chi phí vận hành (sử dụng ít nguyên liệu hơn), giảm được chi phí nhân công, chi phí hành chính trong việc tồn trữ nguyên vật liệu và chất thải...
- Hỗ trợ quá trình ra quyết định: các quyết định mang đến lợi nhuận thường dựa trên các thông tin đầy đủ và chính xác. EMA cung cấp cho những người ra quyết định các thông tin đầy đủ và chính xác về các chi phí liên quan đến môi trường. EMA nhận diện các chi phí liên quan đến môi trường trong từng sản phẩm và từng quy trình sản xuất mà thông thường được phân bổ hoặc ẩn chứa trong các chi phí chung.
- Cải thiện hiệu quả hoạt động kinh tế và môi trường: có rất nhiều cơ hội để cải thiện hiệu quả hoạt động môi trường của doanh nghiệp, như đầu tư vào các công nghệ sạch hơn, thực hiện các chương trình ngăn ngừa ô nhiễm, giảm thiểu chất thải, lắp đặt các hệ thống xử lý ô nhiễm... Vấn đề là những cơ hội nào, giải pháp nào có thể tạo ra lợi nhuận, thu được những khoản tiết kiệm? Bằng cách đánh giá hiệu quả của những cơ hội này, lựa chọn những giải pháp làm gia tăng lợi ích cho doanh nghiệp và giảm thiểu các tác động môi trường của các sản phẩm và các quy trình sản xuất, EMA đã tạo ra những tình huống đôi bên cùng có lợi (win-win situations). Qua đó doanh nghiệp sẽ không chỉ được cải thiện về hiệu quả hoạt động kinh tế và mà còn cải thiện về hiệu quả hoạt động môi trường.
- Thỏa mãn các yêu cầu về trách nhiệm xã hội và thông tin cho các bên liên quan: việc áp dụng EMA trong doanh nghiệp chứng tỏ rằng doanh nghiệp đồng thời quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh tế và môi trường. Điều này có thể thuyết phục các cơ quan quản lý địa phương và trung ương, cộng đồng dân cư xung quanh các khách hàng, ngân hàng và các tổ chức tài chính rằng doanh nghiệp đang được quản lý tốt, phù hợp với các yêu cầu về mặt pháp lý cũng như làm gia tăng những đóng góp về kinh tế cho xã hội.
VII.8. THẢO LUẬN CUỐI CHƯƠNG
1. Các văn bản dưới luật được triển khai ở Việt Nam trong vòng 5 năm?
2. Định gia môi trường có phải là phân việc của KTMT?
3. Sản xuất sạch hơn có được áp dụng ở Việt nam? Nêu lý do?
4. Hạch tóam quản lý môi trường đã được áp dụng ở Việt Nam? Cho ví dụ minh chứng?