1.6. Niêm yết trên thị trường chứng khoán
Đại hội đồng cổ đông đã thông qua chủ trương niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh trong năm 2008 và uỷ quyền cho Hội đồng Quản trị chịu trách nhiệm thực hiện việc niêm yết bao gồm: lựa chọn tổ chức tư vấn niêm yết, tiến hành các công việc liên quan để thực hiện niêm yết theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài việc niêm yết tại Việt Nam, VCB cũng đã có ý định hướng ra thị trường nước ngoài, có thể là thị trường chứng khoán Singapore và Hồng Kông.
Cổ phần hoá cần gắn với việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Sau khi cổ phần hoá, cổ phiếu cần được đưa lên sàn giao dịch để giá trị cổ phiếu được giao dịch công khai và phán ánh đúng giá trị.
Việc lựa chọn địa điểm niêm yết cổ phiếu là một công việc rất quan trọng, nó có thể quyết định đến sự thành bại của cổ phiếu trên thị trường. Các NHTMNN nên chọn lựa thật kỹ trước khi đưa ra quyết định.
1.7. Về cơ cấu quyền sở hữu
Quản trị doanh nghiệp ngày càng trở thành vấn đề thời sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp và nền kinh tế. Khác với hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp hàng ngày của ban lãnh đạo công ty, quản trị doanh nghiệp là cách thức để các cổ đông giám sát công ty nhằm đảm bảo ban lãnh đạo điều hành công ty một cách có hiệu quả và vì lợi ích tốt nhất của các cổ đông (hay chủ sở hữu).
Có thể bạn quan tâm!
- Các Căn Cứ Pháp Lý Cho Việc Cổ Phần Hoá Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
- Hoàn Tất Việc Chuyển Ngân Hàng Thành Ngân Hàng Cổ Phần
- Kinh Nghiệm Cổ Phần Hoá Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
- Cổ phần hoá ngân hàng ngoại thương Việt Nam (vcb): kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại nhà nước - 9
Xem toàn bộ 78 trang tài liệu này.
Một trong những yếu tố căn bản quyết định cấu trúc quản trị doanh nghiệp chính là cơ cấu quyền sở hữu. Trong thời gian qua, Nhà nước luôn giữ một tỷ lệ cổ phần cao trong các doanh nghiệp cổ phần hoá. Việc Nhà nước
duy trì tỷ lệ cổ phần đa số vô hình trung đã tạo ra một số khó khăn trong việc điều hành công ty của các doanh nghiệp cổ phần hoá, đồng thời làm nảy sinh một số vấn đề pháp lý mới. Cụ thể là: Cổ phần hoá vẫn chưa tạo ra được sự rạch ròi giữa quyền quản lý nhà nước và quyền sở hữu, vì Nhà nước vừa là người ban hành các quy định, vừa là cổ đông lớn. Khi sở hữu đa số cổ phần, những người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp có quyền phủ quyết các quyết định quản lý và đầu tư quan trọng, và điều này có thể dẫn đến trường hợp can thiệp một cách duy ý chí vào hoạt động điều hành của doanh nghiệp. Ở tầm vĩ mô, việc Nhà nước đóng vai trò kép - vừa là người chủ sở hữu các DNNN và các doanh nghiệp cổ phần hoá, vừa là cơ quan hành pháp tối cao - tạo ra khả năng một số cơ quan của Nhà nước bị thao túng.
Một vấn đề quan tâm khác là khả năng và nguồn lực của cơ quan quản lý vốn nhà nước rất hạn chế trong khi cơ quan này phải giám sát cùng lúc rất nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá. Hệ quả là cho dù trở thành cổ đông lớn (nếu không nói là lớn nhất) trong nhiều doanh nghiệp thì Nhà nước cũng không thể sử dụng quyền điều hành và giám sát một cách đúng đắn. Điều này, cùng với việc người lao động thường chỉ có tiếng nói yếu ớt, dẫn tới tình trạng ban giám đốc không bị giám sát và trong nhiều trường hợp có thể tự do làm theo ý mình, vì vậy rất dễ xảy ra tình trạng lạm dụng quyền của tập thể để phục vụ lợi ích cá nhân.
Hiện nay, VCB vẫn chưa tìm được nhà đầu tư chiến lược. Vì vậy, hiện nay trong số 15.500 cổ đông của VCB thì riêng Nhà nước đã nắm tới hơn 90% vốn điều lệ, những cổ đông còn lại kể cả cán bộ công nhân viên VCB mới sở hữu gần 10%. Theo quy định hiện nay, việc thông qua các quyết định của doanh nghiệp chỉ cần ít nhất 65% trong tổng số phiếu, còn những quyết định quan trọng hơn như việc thay đổi điều lệ công ty thì cần 75% số phiếu được quyền biểu quyết. Như vậy, nếu Nhà nước nắm giữ hơn 90% vốn điều lệ
thì những ý kiến của những cổ đông khác không còn mấy ý nghĩa. Vì vậy, đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất đã gây không ít bức xúc cho các cổ đông nhỏ. Đây là một vấn đề các ngân hàng khác sẽ rút kinh nghiệm, có thể nâng tỷ lệ biểu quyết tới hơn 90% số phiếu và cần phải sửa đổi để cổ đông nhỏ có một đại diện trong Hội đồng Quản trị. Bởi nếu tính gộp tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhỏ lại thì cũng chưa thoả mãn tỷ lệ 5% yêu cầu theo luật định. Như thế sẽ tránh tình trạng với hơn 90% tỷ lệ, cổ đông Nhà nước có thể đơn phương đưa ra mọi quyết định.
Biết rằng, lịch sử của VCB từ 100% vốn nhà nước, hiện nay còn hơn 90% và để thay đổi tỷ lệ này cũng cần có những bước chuyển tiếp dần dần. Đặc biệt, trong thời gian tới khi phát hành cho đối tác chiến lược nước ngoài 20% vốn điều lệ sẽ đa dạng hơn đối tượng sở hữu, quyền lợi cổ đông cũng được đảm bảo hơn. Tuy nhiên, các NHTMNN khác khi tiến hành cổ phần hoá cũng nên rút kinh nghiệm này từ Ngân hàng Ngoại thương.
Chắc chắn rằng, thời gian và chi phí cho việc cổ phần hoá các ngân hàng còn lại sẽ ngắn hơn và thấp hơn VCB. Hy vọng trong thời gian ngắn nhất, ba NHTMNN còn lại là Vietinbank, BIDV và Agribank có thể tiến hành thành công quá trình cổ phần hoá.
2. KINH NGHIỆM CỔ PHẦN HOÁ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TIÊU BIỂU
2.1. Trung Quốc
Việc cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Trung Quốc là một sự cải cách lớn trong hệ thống tài chính. Với 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước: Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China); Ngân hàng Kiến thiết, Ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng Công thương, Trung Quốc đã lần lượt cổ phần hoá với
lộ trình cụ thể (lộ trình này được xem là nội dung quan trọng trong chương trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng):
- Năm 2004 sẽ hoàn thành cổ phần hoá của hai ngân hàng lớn nhất là Bank of China và Ngân hàng Kiến thiết.
- Năm 2005 sẽ đưa cổ phiếu hai ngân hàng trên vào thị trường chứng khoán.
- Năm 2006 phát hành cổ phiếu Ngân hàng Công thương.
- Năm 2007 phát hành cổ phiếu Ngân hàng Nông nghiệp.
Lộ trình này đã được ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc quyết tâm thực hiện và đã hoàn thành đúng tiến độ. Khi tiến hành cổ phần hoá, ngân hàng Trung Quốc đã thực hiện các nhiệm vụ:
a. Cả 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh thành lập các công ty khai thác tài sản độc lập để giải quyết nợ xấu trước khi cổ phần hoá (mỗi công ty được cấp số vốn ban đầu là 10 tỷ Nhân dân tệ). Cách này được gọi là tách ngân hàng xấu khỏi ngân hàng tốt nghĩa là các công ty khai thác tài sản nợ đã tách ra và có thể liên doanh hoặc bán nợ. Để đạt được kết quả đó Chính phủ Trung Quốc đã triển khai theo 3 cách chính để giải quyết nợ có vấn đề:
Chứng khoán hoá nợ xấu (nghĩa là bán nợ xấu trên thị trường dưới hình thức đấu giá)
Đối tượng mua nợ xấu là các ngân hàng hoặc các tập đoàn tài chính. Một số ngân hàng lớn như Deutsche Bank của Đức và tập đoàn Morgan Stanley của Mỹ đã mua số nợ xấu của Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc trị giá 171 triệu USD với giá chỉ bằng 1/3 so với giá trị thế chấp.
Bán 40% - 50% cho các công ty trên thị trường hoặc lập công ty liên doanh liên kết chuyển mua lại nợ xấu của ngân hàng
Cách làm này sẽ tách bạch được người cho vay và người thu nợ. Người thu nợ sẽ tích cực hơn. Hoặc đôi khi người cho vay lại là người gửi tiền, công ty khai thác tài sản sẽ làm việc mà không ảnh hưởng đến việc huy động tiền gửi của ngân hàng. Cách làm là bán một phần hoặc bán toàn bộ nợ, hoặc chuyển quyền sở hữu nợ cho công ty đó.
Các công ty quản lý nợ được Quốc Vụ viện Trung Quốc cho phép phát hành trái phiếu với lãi suất thấp cho 4 ngân hàng thương mại nhằm lấy nợ mới trả nợ xấu cho các doanh nghiệp (trong trường hợp các doanh nghiệp có khả năng trả nợ)
Trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả được nợ thì công ty quản lý nợ có quyền bán cổ phần của doanh nghiệp. Công ty sau khi nhận khoản nợ sẽ là cổ đông của doanh nghiệp và quản lý toàn bộ cổ phần tương ứng với khoản nợ. Nếu cổ phiếu không bán được thì Bộ Tài chính sẽ đứng ra bảo lãnh trả thay cho doanh nghiệp.
b. Điều then chốt mà các ngân hàng Trung Quốc quan tâm trong quá trình cổ phần hoá là lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược. Ưu tiên là các ngân hàng và tập đoàn từ Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Mục đích của việc lựa chọn này nhằm cải thiện cơ cấu cổ đông trong Ngân hàng Thương mại vốn chỉ có các nhà đầu tư trong nước. Thông qua đó thu hút vốn, chuyển giao công nghệ, tạo ra sự đổi mới tư duy quản lý, cách tiếp cận kinh doanh và đạt được mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên Chính phủ Trung Quốc vẫn xác định sở hữu chính 4 NHTMNN là Nhà nước chiếm trên 51% và tỷ lệ cổ phần bán tối đa cho các cổ đông nước ngoài không quá 25%. Hiện nay đã có rất nhiều ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài có cổ phần tại các Ngân hàng Thương mại Trung Quốc như: HSBC giữ 19,9% cổ phần của Ngân hàng Giao thông và 20% cổ phần của Ngân hàng Thượng Hải; Citi Bank nắm giữ 5% cổ phiếu của Ngân hàng Phố Đông Thượng Hải...
c. Cơ chế cổ phần hoá và niêm yết chỉ là một phần trong cải cách ngân hàng Trung Quốc. Đối với việc cải cách tiến hành lựa chọn cơ chế phù hợp cho từng ngân hàng và đưa ra từng bước khả thi. Ví dụ: Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc đã ưu tiên vốn thành lập các công ty cổ phần tạo ra sức mạnh cho các Công ty cổ phần và tiến hành niêm yết, sau đó Tập đoàn Ngân hàng sẽ niêm yết sau. Mục đích ở đây là giảm tỷ lệ vốn không lành mạnh, nâng cao năng lực vốn, năng lực quản trị ngân hàng và vận hành tài chính có hiệu quả. Nhưng cũng có ngân hàng khớp hai bước này làm một do đã có khả năng như Ngân hàng Trung Quốc.
d. Nâng cao tỷ lệ vốn tự có bằng cách hỗ trợ vốn từ phía Nhà nước. Trong năm 2004 Chính phủ đã trích từ Quỹ dự trữ Ngoại tệ bổ sung vốn cho hai ngân hàng là Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Kiến thiết 45 tỷ USD. Với số vốn cấp thêm này đã tạo điều kiện tăng vốn nhưng quan trọng hơn là cổ phần hoá của ngân hàng trong ngân hàng thương mại đã đạt trên 51%. Ngoài Chủ tịch Hội đồng quản trị do Nhà nước bổ nhiệm còn có thêm thành viên của Uỷ ban Giám sát Ngân hàng để quản lý vốn Nhà nước.
e. Việc cổ phần hoá về nguyên tắc phải đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu 8% (thực tế những tài sản đã niêm yết ở Hongkong thì đã đạt Basel 10. Tuy nhiên trong thực tế do nhu cầu bức xúc cũng có Ngân hàng thương mại tỷ lệ này còn ở mức 5% vẫn được tiến hành cổ phần hoá. Công cuộc tái cơ cấu vẫn tiếp tục lâu dài sau khi cổ phần hoá.
Mặc dầu Trung Quốc đã trở thành cường quốc thương mại lớn thứ ba thế giới, thị trường tài chính phát triển mạnh nhưng đặc thù của các NHTMNN cũng có điểm tương đồng với Việt Nam về quy mô vốn nhỏ, thị phần hoạt động và đối tượng cho vay chủ yếu là DNNN. Vì vậy, những kinh nghiệm cổ phần hoá ở Trung Quốc cũng rất cần thiết cho quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
2.2. Ba Lan
Trong khối các nước Đông Âu thì Ba Lan là nước đi đầu trong quá trình cổ phần hoá các DNNN. Quá trình cổ phần hoá này được sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính của WB và nhóm các nước G7. Trong quá trình cổ phần hoá các DNNN, thì các NHTMNN cũng nằm trong quá trình cổ phần hoá đó, quá trình cổ phần hoá NHTMNN của Ba Lan được lên kế hoạch rõ ràng là đến hết năm 1996 sẽ cổ phần hoá 7 trong số 9 NHTMNN.
Ban đầu kế hoạch được đưa ra là nhà nước sẽ năm 30% cổ phiếu, nhân viên ngân hàng sẽ năm 20%, số còn lại sẽ được bán đấu giá cho các nhà đầu tư nhỏ và một số đối tác chiến lược. Tuy nhiên tỷ lệ này đã được điều chỉnh qua thời gian.
Ngay từ ban đầu kế hoạch cổ phần hoá của Ba Lan đã được xây dựng với mục tiêu:
- Duy trì sở hữu của các nhà đầu tư trong nước, tránh sự thôn tính của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước.
- Củng cố, phát triển hệ thống ngân hàng nội địa, chuẩn bị cho sự cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
Hai NHTMNN đầu tiên với chất lượng quản lý và tình hình tài chính tương đối tốt hơn được bắt đầu tiến hành cổ phần hoá vào năm 1991, và thực sự trở thành doanh nghiệp cổ phần hoá vào tháng 3/1993. Ngân hàng đầu tiên được cổ phần hoá là ngân hàng Wielkopolski Bank Kredytowy (WBK) với giá bán trung bình là 6,89 USD/cổ phiếu. Phương thức bán là thoả thuận giữa người mua và nhà nước để đạt giá bán ra. Đến tháng 6/1993 (sau 3 tháng) cổ phiếu ngân hàng này được niêm yết trên thị trường chứng khoán với giá 19,66 USD (cao hơn 3 lần so với giá bán khi tiến hành cổ phần hoá). Ngân hàng này được tiến hành cổ phần hoá với sự trợ giúp cả về kỹ thuật và đảm bảo tài
chính từ phía WB để thu hút các đối tác đầu tư chiến lược từ nước ngoài nhằm chuyển giao công nghệ ngân hàng vào Ba Lan. Vì vậy, đến năm 1997 thì ngân hàng Allied Irish Bank đã nắm quyền kiểm soát ngân hàng với 60% cổ phiếu.
NHTMNN thứ hai của Ba Lan được cổ phần hoá là Ngân hàng Slaski (BSK). Ngân hàng này được tiến hành cổ phần hoá vào tháng 12/1993 chậm hơn so với ngân hàng WBK 9 tháng. Nhằm tránh tình trạng định giá cổ phiếu thấp quá như đã diễn ra với ngân hàng trước nên cổ phiếu lần này được lên kế hoạch bán đấu giá công khai. Tuy nhiên quá trình bán đấu giá công khai đã không thành công do có sự thay đổi về chính phủ sau bầu cử. Vì vậy giá bán cổ phiếu ngân hàng này được định giá là 25 USD/cổ phiếu. Với tỷ lệ công nhân viên được mua ưu đãi giá 12,5 USD/cổ phiếu với 10% cổ phần, nhà nước giữ 33%, bán cho nhà đầu tư chiến lược ING Bank của Hà Lan 25,9% và số còn lại bán cho các nhà đầu tư trong nước.
Đến ngày 25/01/1994 thì cổ phiếu ngân hàng này được niêm yết và lần này thì giá cổ phiếu được thị trường chấp nhận tại phiên giao dịch đầu tiên là 337,5 USD/cổ phiếu cao gấp 13,5 lần giá bán ban đầu khi tiến hành cổ phần hoá. Đến tháng 7/1996 ING mua thêm 28% cổ phần của nhà nước và nắm tỷ lệ chi phối là 54%.
Ngân hàng thứ ba được tiến hành cổ phần hoá là ngân hàng PrzemyslowoHandlowy (BPH) vào tháng 1/1995. Tuy nhiên đây là ngân hàng có chất lượng quản lý và tín dụng thấp hơn so với 2 ngân hàng trước nên mặc dù đã đưa cổ phiếu ra đấu giá công khai nhưng giá bán (giá trúng thầu) bằng đúng với giá thấp nhất của chính phủ đưa ra ban đầu và nhà nước vẫn nắm 43% cổ phần.
Trước tình hình đó, năm 1995 chính phủ Ba Lan đã đưa ra kế hoạch củng cố các ngân hàng trước khi tiến hành cổ phần hoá rộng hơn nữa. Đây là kế
hoạch vừa để đảm bảo tận thu cho ngân sách nhà nước vừa hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phần chi phối của nước ngoài.
Tháng 12/1995 ngân hàng thứ tư được tiến hành cổ phần hoá đó là ngân hàng Gdanski (BG). Kế hoạch được thông báo là 33% cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư nước ngoài theo danh mục đầu tư (không bán cho 1 hoặc 2 đối tác chiến lược như các ngân hàng cổ phần hoá trước), 33% được bán cho các nhà đầu tư trong nước, 4% được bán cho cán bộ công nhân viên ngân hàng, còn lại 30% nhà nước tiếp tục nắm giữ. Như vậy kế hoạch này đã thể hiện ý chí của chính phủ lúc đó là không muốn một hoặc một nhóm nhỏ những đối tác nước ngoài sẽ nắm được cổ phần chi phối.
Cuối năm 1995 với cố gắng của chính phủ nhằm tránh sự chi phối hệ thống ngân hàng của các nhà đầu tư nước ngoài và sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài, chính phủ đã công bố kế hoạch củng cố các ngân hàng còn lại bằng việc sáp nhập tất cả các NHTMNN còn lại cung với ngân hàng BPH thành 2 ngân hàng lớn.
Đầu tiên là ngân hàng Handlowy (BH), đây là ngân hàng hoạt động lâu nhất tại Ba Lan. Ngân hàng này hoạt động từ năm 1870 là một ngân hàng tư nhân, được quốc hữu hoá sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Ngân hàng này nhờ truyền thống vẫn là một ngân hàng mạnh vì vậy không có gì nhiều để tiến hành cải tổ.
Nhóm thứ hai là ngân hàng Pekao S.A đã đứng ra sáp nhập 3 NHTMNN khác vào để thành lập nên ngân hàng Pekao. Hiện nay, đây là ngân hàng lớn nhất Ba Lan chiếm 20% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng.
Bài học rút ra:
- Có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho việc cổ phần hoá NHTMNN cộng với sự bất ổn về chính trị, đặc biệt là mục tiêu ưu tiên của chính phủ
thay đổi sẽ làm cho tiến trình cổ phần hoá chậm lại, từ đó ảnh hưởng chung đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng.
- Vấn đề định giá cổ phiếu hay là việc đánh giá giá trị tài sản doanh nghiệp là vấn đề quan trọng. Nếu làm sai có thể gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước.
- Không lường trước được nhu cầu của thị trường về cổ phiếu của một ngân hàng có thể gây bất ổn cho cả quá trình cổ phần hoá DNNN nói chung.
- Cần phát triển thị trường giao dịch chứng khoán song hành với việc cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Cần có kế hoạch thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài cụ thể, tránh tình trạng chữa cháy khi thấy không kiểm soát được hệ thống ngân hàng.
3. GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
Cổ phần hoá các NHTMNN là một điều rất cần thiết và cấp bách hiện nay. Phải khẳng định cổ phần hoá ở đây là làm tăng thêm vốn cho các NHTMNN chứ không làm giảm số vốn và tài sản của nhà nước đang có ở các ngân hàng này. Vì đặc thù và vai trò đặc biệt quan trọng của các NHTMNN trong việc đẩy mạnh phát triển và ổn định nền kinh tế nên nhà nước cần phải giữ vai trò chủ đạo và nắm số cổ phần chi phối trong các ngân hàng này. Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá NHTMNN cần tiến hành nhiều giải pháp đồng thời:
3.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
Một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình cổ phần hoá VCB là tình trạng can thiệp của các cơ quan công quyền, hệ thống văn bản hành chính, thủ tục rườm rà, chồng chéo. Văn bản pháp quy cao nhất về cổ phần hoá hiện nay là Nghị định của Chính phủ. Nghị định của Chính phủ về cổ
phần hoá thường thay đổi, khi Nghị định mới ra đời thì phải chờ ban hành các thông tư hướng dẫn của các Bộ làm ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hoá. Đã đến lúc cần sự can thiệp của Quốc hội, không thể phó mặc cho Chính phủ chỉ đạo điều hành việc cổ phần hoá bằng những nghị định, cần phải luật hoá những quy định về cổ phần hoá DNNN. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải ban hành một luật về cổ phần hoá bởi vấn đề này chỉ diễn ra trong một thời kỳ nhất định. Chỉ cần Quốc hội ban hành một pháp lệnh về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần, trong đó quy định cụ thể về mục tiêu cổ phần hoá DNNN, các ngành, các lĩnh vực phải được cổ phần hoá triệt để, quy định trình tự, thủ tục, thời gian… phải hoàn thành việc cổ phần hoá ở từng ngành, từng lĩnh vực và các chế tài đối với những hành vi cố tình trì hoãn việc cổ phần hoá. Việc ban hành văn bản có giá trị pháp lý cao như vậy sẽ ngăn chặn được tình trạng tuỳ tiện thay đổi kế hoạch, kéo dài thời gian cổ phần hoá nhằm những mục đích thiếu minh bạch.
Ngoài ra, NHTMNN hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu chế định của Luật DNNN. “Sau cổ phần hoá, nếu cổ phần của Nhà nước chiếm trên 50% thì ngoài 2 luật trên, ngân hàng cổ phần hoá còn phải tuân thủ Luật Doanh nghiệp; còn trường hợp Nhà nước không giữ cổ phần chi phối thì ngân hàng cổ phần hoá chịu chế định của 2 luật là Luật các tổ chức tín dụng và Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo Luật DNNN và Luật Doanh nghiệp, nếu cùng một vấn đề có quy định khác nhau thì doanh nghiệp thực hiện theo luật chuyên ngành. Trong trường hợp này, luật chuyên ngành là Luật các tổ chức tín dụng” [14]. Như vậy, khuôn khổ pháp lý quá phức tạp và rườm rà. Vì vậy, việc có Luật NHTMNN cổ phần hoá là việc hết sức cần thiết để tránh được vấn đề trên.
Quá trình cổ phần hoá không thể tách rời bối cảnh chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự gia tăng số DNNN nói riêng và các ngân hàng nói
chung được cổ phần hoá, một mặt sẽ là động lực cho sự phát triển kinh tế đất nước, nhưng cũng là một nhân tố dẫn tới sự phát triển tự phát sang chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, cùng với sự quản lý, điều tiết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá, việc quản lý điều tiết các doanh nghiệp này cũng hết sức quan trọng. Song sự quản lý, điều tiết các doanh nghiệp không đơn giản, mà điều quan trọng bậc nhất là phải bảo đảm lợi ích của các chủ doanh nghiệp. Chúng ta cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa làm chỗ dựa cho các doanh nghiệp phát triển, vừa bảo đảm cho sự phát triển các doanh nghiệp không đi chệch con đường mà chúng ta đã lựa chọn. Quản lý theo pháp luật là yêu cầu và cũng là tiền đề để hướng sự phát triển của các doanh nghiệp với các hình thức sở hữu khác nhau vào mục đích chung phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần đặc biệt tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của mình thông qua hệ thống pháp luật.
3.2. Xác định giá trị doanh nghiệp thông qua tổ chức tư vấn quốc tế
Có thể nói, định giá không phải là một môn khoa học chính xác. Các phương pháp định giá hoặc dựa trên thông tin quá khứ, hoặc là dựa trên dự đoán về tương lai. Phương pháp dựa trên thông tin quá khứ có thể không phản ánh được hiện tại và tương lai, còn phương pháp dựa trên suy đoán về tương lai thì phụ thuộc vào độ chính xác của suy đoán. Cách duy nhất hạn chế những điểm yếu này là chào bán trên thị trường công khai. Nhà nước khi bán tài sản đương nhiên mong muốn đảm bảo rằng người mua trả gần với giá trị thực và do đó muốn áp dụng một số kỹ thuật định giá tiêu chuẩn. Tuy nhiên, điều này khó thực hiện được ở những thị trường như Việt Nam khi mà quyền sử dụng đất thường chiếm một phần lớn giá trị của DNNN, trong khi đó không có thông tin thị trường để xác định được giá trị của quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc thuê nhà tư vấn nước ngoài là một việc hết sức cần thiết.