Sau một quá trình dài tranh cãi về việc nên định giá VCB như thế nào, Chính phủ đã quyết định dựa trên ý kiến của đơn vị tư vấn là không đánh giá lại giá trị sổ sách của VCB. Tất cả tài sản đều được giữ nguyên giá trị sổ sách để xác định vốn chủ sở hữu, từ đó tính toán vốn điều lệ mới trên cơ sở tỷ lệ nắm giữ cần thiết của Nhà nước. Như vậy, việc định giá doanh nghiệp là một việc làm không cần thiết và lạc hậu. Vì vậy, không nên định giá NHTMNN thông qua Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp (Ngân hàng Nhà nước) thành lập. Ngân hàng nên thuê tổ chức tư vấn quốc tế có kinh nghiệm về cổ phần hoá DNNN ở các nước. VCB nói riêng và các NHTMNN nói chung đã có thương hiệu và uy tín trong và ngoài nước. Do đó, việc định giá thương hiệu và các tài sản khác của các NHTMNN cần có sự tư vấn của các chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ trong lĩnh vực này.
3.3. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược
Thực tế đã chứng minh ảnh hưởng tích cực của nhà đầu tư chiến lược đối với doanh nghiệp. Việc kết hợp với nhà đầu tư chiến lược trong tiến trình cổ phần hoá các DNNN nói chung và các ngân hàng nói riêng được ví như những cuộc “hôn nhân” tự nguyện. Để cuộc “hôn nhân” này được hạnh phúc và bền vững, ngoài việc tìm hiểu kỹ lưỡng khả năng đáp ứng của các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng với yêu cầu của mình, các ngân hàng cũng cần quan tâm tới yêu cầu của các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng đối với mình. Vì vậy, nên mở rộng sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược. Ngoài ra, quy định về phương thức tham gia của nhà đầu tư chiến lược cũng cần linh hoạt và hợp lý hơn, để phát huy hiệu quả và ảnh hưởng tích cực của nhà đầu tư chiến lược. Ví dụ, nhà đầu tư chiến lược sau khi đáp ứng được các yêu cầu, có thể được tiếp cận, tìm hiểu thực trạng, cùng tham gia xây dựng, đánh giá chiến lược, kế hoạch kinh doanh tương lai của ngân hàng.
Lựa chọn nhà đầu tư chiến lược là một nghiệp vụ có ảnh hưởng tích cực tới giá trị ngân hàng và sự phát triển vững mạnh, bền vững của ngân hàng trong tương lai, đặc biệt là trong tiến trình cổ phần hoá, tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế. Lựa chọn đúng nhà đầu tư chiến lược sẽ giúp cho quá trình cổ phần hoá của các ngân hàng và đẩy mạnh quá trình phát triển nền kinh tế, cũng như sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
3.4. Gắn liền việc niêm yết trên thị trường chứng khoán với việc cổ phần hoá ngân hàng
Cổ phần hoá cần gắn với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, đòi hỏi phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam phải lớn mạnh, xứng đáng là sàn giao dịch công bằng, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả cho các nhà đầu tư. Cần gắn liền việc niêm yết trên thị trường chứng khoán với việc cổ phần hoá ngân hàng: Việc đưa vào các quy định pháp lý ngay từ
đầu các điều khoản yêu cầu các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết khi cổ phần hoá phải tổ chức bán đấu giá và niêm yết ngay trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ tạo ra một thói quen cho ngân hàng khi cổ phần hoá với việc minh bạch và công khai hoá thông tin ngay từ đầu. Có như vậy thị trường chứng khoán sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá NHTMNN thông qua việc thực hiện thành công việc bán cổ phần của các NHTMNN cổ phần hoá. Và một khi cổ phiếu ngân hàng được niêm yết trên thị trường chứng khoán thị sẽ có một khối lượng hàng hoá lớn được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán, tạo nên sự sôi động trên thị trường chứng khoán và chắc chắn thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tiến lên một bước.
3.5. Phát triển nguồn nhân lực
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn Tất Việc Chuyển Ngân Hàng Thành Ngân Hàng Cổ Phần
- Kinh Nghiệm Cổ Phần Hoá Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
- Cổ phần hoá ngân hàng ngoại thương Việt Nam (vcb): kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại nhà nước - 8
Xem toàn bộ 78 trang tài liệu này.
Sau khi cổ phần hoá, các NHTMNN được hoạt động với tư cách là công ty cổ phần nên giám đốc có quyền sử dụng lao động theo luật định về tuyển chọn, sử dụng, ký hợp đồng lao động, thậm chí sa thải, trả lương theo chất lượng công việc, quyết định về chế độ đãi ngộ. Lao động trong ngân hàng là cổ đông của ngân hàng, có thể làm việc hoặc không làm việc trực tiếp cho ngân hàng. Trước đó, các ngân hàng có thể sắp xếp giảm biên chế, cho về hưu sớm đối với người lao động trên cơ sở đảm bảo thu nhập cho họ dựa vào Quỹ sắp xếp lao động của ngân hàng. Như vậy, bài toán về giải quyết nguồn lao động dôi dư - bài toán nan giải hiện nay sẽ được giải quyết phần nào.
Cần đổi mới tổ chức và mạng lưới các chi nhánh NHTMNN một cách có hiệu quả. Nâng cao trình độ cán bộ trong các ngân hàng này để có thể đáp ứng được các đòi hòi đặt ra trong tiến trình cổ phần hoá và hội nhập, và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn phát triển tới.
Với các ngân hàng nhà nước chưa cổ phần hoá, tất cả người lao động, cán bộ trong ngân hàng đó, nhất là các cán bộ nghiên cứu và quản lý, cần tích cực tham gia suy nghĩ, hiến kế, tham mưu cho Ban lãnh đạo để thu hút và tranh thủ được các ý kiến đóng góp và sự đồng thuận của các cấp lãnh đạo và
các cán bộ nghiên cứu, quản lý ngoài ngành và giúp ngân hàng đó có thể tiến hành cổ phần hoá, đáp ứng cả về thời hạn lẫn chất lượng.
Kết luận chương III
Kết quả cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giúp chúng ta có những kinh nghiệm quý báu từ phát hành trái phiếu tăng vốn, về xử lý nợ và tài sản tồn đọng, về lựa chọn tổ chức tư vấn, về phát hành cổ phiếu đến lựa chọn nhà đầu tư chiến lược... Từ đó, góp phần triển khai cổ phần hoá các NHTMNN được thuận lợi hơn, quản lý chặt chẽ nguồn vốn của Nhà nước trong các NHTMNN, từng bước nâng cao sức cạnh tranh và vai trò chủ đạo của các NHTMNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài việc rút kinh nghiệm từ ngân hàng thí điểm cổ phần hoá, thì việc tìm hiểu kinh nghiệm từ nước ngoài cũng là điều cần thiết. Khoá luận lấy kinh nghiệm cổ phần hoá NHTMNN của hai nước là Trung Quốc và Ba Lan. Trung Quốc là một nước liền kề với Việt Nam, có những đặc điểm lịch sử giống Việt Nam và đặc biệt các NHTMNN cũng có những điểm tương đồng với Việt Nam về quy mô vốn nhỏ, thị phần hoạt động và đối tượng cho vay chủ yếu là DNNN. Còn Ba Lan là một nước đi đầu và là một điển hình trong quá trình cổ phần hoá ở các nước Đông Âu. Chắc chắn việc cổ phần hoá của 2 nước này đã đem lại nhiều bài học quý báu cho công cuộc cổ phần hoá NHTMNN ở Việt Nam.
Theo cam kết, lộ trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta phải cho các ngân hàng nước ngoài vào kinh doanh tại Việt Nam, điều đó sẽ gây sức ép rất lớn đối với hệ thống NHTMNN. Muốn cho quá trình cổ phần hoá các NHTMNN tiến hành nhanh hơn, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp thông qua tổ chức tư vấn quốc tế, tạo điều kiện hơn nữa cho các nhà đầu tư chiến lược, gắn liền việc niêm yết trên thị trường chứng khoán với việc cổ phần hoá ngân hàng. Hy
vọng thời gian và chi phí cho việc cổ phần hoá các NHTMNN còn lại sẽ ngắn hơn và thấp hơn rất nhiều so với VCB.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các NHTM nói riêng. Nhưng thời cơ luôn đến cùng thách thức và phần thắng sẽ thuộc về những người dám bứt phá, vượt qua chính mình để đối mặt với thách thức, nắm lấy thời cơ. Chính vì vậy, thẳng thắn nhìn nhận các nguy cơ, mạnh dạn “cải tổ” nên được xem là tiền đề quan trọng để tự tin bước vào WTO. Để có thể đứng vững và tự tin bước vào sân chơi bình đẳng này, hệ thống NHTMNN cần phải có cải cách triệt để. Trong đó, việc quyết định mô hình sở hữu đóng vai trò quan trọng bậc nhất hiện nay - mô hình Cổ phần hoá NHTMNN Việt Nam.
Khoá luận đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cổ phần hoá đã xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 của thế kỷ trước. Tại Việt Nam, quá trình cổ phần hoá đã trở thành một diễn đàn mang tính thời sự trong những năm 90 của thế kỷ trước và những năm đầu thế kỷ XXI khi hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Cổ phần hoá DNNN được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm không ngừng đổi mới và phát triển DNNN. Quy trình cổ phần hoá ở mỗi nước là khác nhau. Ở Việt Nam, theo Thông tư 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính, quy trình thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam bao gồm 3 bước chính: xây dựng phương án cổ phần hoá, tổ chức bán cổ phần và hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Thứ hai, Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường theo xu hướng hội nhập, thì dứt khoát phải phát triển mạnh các công ty cổ phần, phát triển thị trường chứng khoán. Hệ thống NHTMNN cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. So với cổ phần hoá DNNN, cổ phần hoá NHTMNN có những nét đặc thù nhất định và việc cổ phần hoá cũng sẽ có những khó khăn hơn so với
cổ phần hoá một DNNN thông thường. Vì vậy, cần thí điểm cổ phần hoá một hoặc hai ngân hàng, từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục mở rộng cổ phần hoá các NHTMNN còn lại, tránh những sai lầm không đáng có.
Thứ ba, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một ngân hàng được tiến hành thí điểm. Có thể nói, quá trình cổ phần hoá NHNT Việt Nam được đánh dấu bằng sự kiện phát hành trái phiếu tăng vốn rất thành công năm 2005. NHNT đã rất nỗ lực trong việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng. NHNT đã tiến hành IPO rất thành công vào cuối năm 2007, thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư. Và đến 23/05/2008, NHNT đã chính thức được cấp Giấy phép thành lập và trở thành Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Thứ tư, việc học tập cổ phần hoá NHTMNN ở Trung Quốc - một nước liền kề với Việt Nam, có những đặc điểm lịch sử giống Việt Nam và đặc biệt các NHTMNN cũng có những điểm tương đồng với Việt Nam về quy mô vốn nhỏ, thị phần hoạt động và đối tượng cho vay chủ yếu là DNNN và Ba Lan - một nước đi đầu và là một điển hình trong quá trình cổ phần hoá ở các nước Đông Âu là một điều cần thiết. Chắc chắn việc cổ phần hoá của 2 nước này đã đem lại nhiều bài học quý báu cho công cuộc cổ phần hoá NHTMNN ở Việt Nam.
Thứ năm, kết quả cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giúp chúng ta có những kinh nghiệm quý báu từ phát hành trái phiếu tăng vốn, về xử lý nợ và tài sản tồn đọng, về lựa chọn tổ chức tư vấn, về phát hành cổ phiếu đến lựa chọn nhà đầu tư chiến lược...
Thứ sáu, trên cơ sở rút kinh nghiệm cổ phần hoá NHTMNN ở Ba Lan, Trung Quốc và ở Việt Nam, khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá NHTMNN ở Việt Nam.
Quá trình cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một bước tiến quan trọng trong công cuộc cổ phần hoá NHTMNN ở Việt Nam. Mặc dù mỗi ngân hàng có màu sắc riêng, nhưng chắc chắn, thông qua quá trình đó, mỗi NHTMNN đã rút kinh nghiệm cho mình. Chắc chắn rằng, thời gian và chi phí cho việc cổ phần hoá các ngân hàng còn lại sẽ ngắn hơn và thấp hơn VCB. Hy vọng trong thời gian ngắn nhất, ba NHTMNN còn lại là Vietinbank, BIDV và Agribank có thể tiến hành thành công quá trình cổ phần hoá.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng do khả năng có hạn, khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Nhân dịp này cho phép em được bày tỏ lòng cảm ơn đến các thầy, cô giáo của trường Đại học Ngoại thương đã truyền thụ kiến thức cho chúng em là những sinh viên được học tập. Đặc biệt xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Trọng Hải đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn để bản thân em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
Sách, báo, tạp chí:
1. Phí Văn Chỉ (chủ biên) (2000), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong công ty cổ phần, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 9 - 10, Hà Nội.
2. ThS. Trần Đình Cường (2005), Ảnh hưởng của nhà đầu tư chiến lược đối với giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hoá, Tạp chí Tài chính (tháng 5/2005).
3. Hoàng Ngọc Hải (2006), Cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2006.
4. Trịnh Hữu Hạnh (2003), Sự cần thiết phải cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Ngân hàng, số 13/2003.
5. Nguyễn Thanh Hiền (2005), Bàn về cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước, Tạp chí Tài chính (tháng 7/2005).
6. TS. Nguyễn Đắc Hưng (2004), Một số quan điểm về cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước, Tạp chí Tài chính (tháng 10/2004).
7. ThS. Trịnh Phong Lan (2007), Cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước - Kinh nghiệm từ Trung Quốc, Tạp chí Tài chính (tháng 5/2007).
8. TS. Hoàng Thị Liễu (2006), Cổ phần hoá - Con đường dẫn tới hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp, Thông tin phục vụ lãnh đạo, 19 - 23, số 20 (355).
9. TS. Lê Quốc Lý (2005), Bàn về cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 5/2005.
10. Huy Minh (2007), Các ngân hàng thương mại Nhà nước đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, Tạp chí Ngân hàng, số 16 (tháng 8/2007).
11. Trần Ngọc Minh (2006), Cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước - Những vấn đề đặt ra và giải pháp thúc đẩy, Tạp chí Phát triển kinh tế (tháng 8/2006).
12. ThS. Cao Thị Ý Nhi (2006), Cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam trên cơ sở bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 114/2006.
13. Nguyễn Văn Phương (2005), Cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước - cần có quy định thích hợp, Tạp chí Thương mại, số 8/2005.
14. TS. Nguyễn Đình Tài (2004), Cổ phần hoá ngân hàng thương mại quốc doanh: Được và mất, Tạp chí Tài chính (tháng 8/2004).
15. TS. Hoàng Đức Tảo (chủ biên) (1993), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - kinh nghiệm thế giới, Nhà xuất bản thống kê, 8 - 12, Hà Nội.
16. Hoàng Công Thi (1993), Hỏi và đáp về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
17. Nguyễn Đình Tự (2006), Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước trong phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, số 4 (tháng 2/2006).
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Bàn về cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Nhà nước, Nhà xuất bản Thống kê, 56 - 58, Hà Nội.
19. Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
20. Nghị định số 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần.
21. Thông tư TT50-TC/TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ tài chính về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Internet:
22. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, VCB tổ chức Đại hội cổ đông lần thứ nhất năm 2008, 27/04/2008, http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=212 4&Itemid=30
23. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, VCB lãi trên 9 tỷ đồng quý I/2008, 24/04/2008, http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=216 4&Itemid=30
24. Vietcombank (2006), Khái quát Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
25. Vietcombank, Con số và sự kiện Vietcombank năm 2007, 10/01/2008, http://www.vietcombank.com.vn/News/Vcb_News.aspx?ID=4061
26. Vietcombank, Thông báo về giá đấu bình quân thực tế đợt IPO của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, 14/02/2008, http://www.vietcombank.com.vn/News/Vcb_News.aspx?ID=4078
27. Vietcombank, Biên bản họp Đại hội cổ đông lần thứ nhất, 26/04/2008.
Tài liệu tiếng Anh
28. D.G.McFetridge (1997), The economics of Privatization, C.D. Howe Institute Benefactors Lecture.