thực của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến những hiệu ứng: người lao động trong doanh nghiệp sẽ mua hết cổ phần được bán ra nếu kết quả xác định doanh nghiệp thấp, hoặc sẽ không bán được cổ phần nếu giá trị doanh nghiệp được xác định quá cao. Vì vậy nhà nước cần sớm hoàn thiện một phương pháp định giá trị doanh nghiệp, tuy nhiên sẽ không có một phương pháp hoàn toàn tối ưu nhưng phải có phương pháp sao cho đảm bảo được lợi ích của cả người bán và người mua. Vì vậy nhà nước cần xây dựng phương pháp định giá doanh nghiệp gắn chặt với thị trường và thông qua đấu thầu. Để thực hiện được phương pháp đó, cần bổ sung thêm các quy định về xác định phẩm chất tài sản, xác định uy tín lợi thế của doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp, đồng thời phải áp dụng thêm một số phương pháp khác nhằm kiểm tra độ chính xác và tính hợp lý kết quả xác định giá doanh nghiệp trước khi công bố giá để bán cổ phần.
Thứ ba, giải quyết lao động dư dôi sau CPH.
Như đã trình bày ở phần “những bức xúc”; nhà nước quy định: không được chấm dứt hợp đồng với người lao động sau khi doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong năm đầu tiên đang là một khó khăn lớn của các CTCP và việc cần phải chấm dứt ngay hợp đồng với người lao động không đáp ứng yêu cầu trong cơ chế kinh tế thị trường để CTCP giảm bớt gánh nặng; sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn là một đòi hỏi chính đáng. Song nhìn chung số người dôi dư phần lớn đã có nhiều cống hiến cho doanh nghiệp nhà nước một thời, vì vậy theo chúng tôi nhà nước cần điều chỉnh và sửa đổi cơ chế giải quyết chính sách thôi việc mất việc ở các doanh nghiệp CPH theo hướng: tăng mức trợ cấp cho người lao động, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động khi để người lao động mất việc sau khi chuyển sang làm việc tại CTCP, đơn giản hóa các thủ tục và tập trung sự hỗ trợ của nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ CPH DNNN, để làm sao người thôi việc tự nguyện và người mất việc cần được chấm dứt hợp đồng sớm nhưng không bị hẫng hụt và xáo trộn cuộc
sống. Về mức trợ cấp thôi việc, mất việc cho người lao động dôi ra trong CPH DNNN theo Nghị quyết số 177/1999/QĐ - TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ là quá thấp chưa khuyến khích được người lao động tự nguyện thôi việc và cũng chưa tạo được điều kiện cho người thôi việc, mất việc tự lập nghiệp được trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy cần nâng cao mức trợ cấp cho các đối tượng thôi việc và mất việc để chấm dứt hợp đồng, có như vậy doanh nghiệp sau CPH mới có điều kiện nâng cao tay nghề cho công nhân là điều kiện để đổi mới công nghệ và không phải chịu sức ép từ số lao động không còn thích hợp với môi trường và yêu cầu mới.
Thứ tư, Nhà nước cần xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người đại diện vốn nhà nước tại CTCP.
Như đã biết DNNN sau CPH sẽ hoạt động theo luật công ty, kể cả khi nhà nước giữ 51% cổ phần chi phối còn nếu sau CPH doanh nghiệp vẫn hoạt động theo luật DNNN thì việc cổ phần hóa coi như bị thất bại. Vấn đề sẽ không có gì để bàn nếu DNNN sau CPH có 100% của các cổ đông, không còn phần vốn của nhà nước vì thực tế các CTCP loại này đã và đang hoạt động khá trôi chảy. Vấn đề đáng bàn là khi CTCP vẫn còn phần vốn của nhà nước và phải có một người trong HĐQT đại diện cho phần vốn này của nhà nước. Vấn đề đặt ra là nếu CTCP hoạt động không hiệu quả thua lỗ hoặc phá sản thì tính trách nhiệm mất vốn cổ phần vốn nhà nước thuộc về ai vì thực tế hiện nay ở nhiều CTCP không ai trong HĐQT đích danh chịu trách nhiệm về phần vốn đó. Hơn thế dù theo quy định hiện hành vai trò vị trí của người đại diện cho phần vốn của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của CTCP, song trên thực tế vì nhiều lý do nên người đại diện nhà nước tại CTCP vẫn chưa thực hiện tốt vai trò, nhiều khi không rõ chức năng nhiệm vụ đôi thi phần nào còn cản trở đến tính chủ động của CTCP. Vì vậy để quản lý có hiệu quả phần vốn của nhà nước tại CTCP thiết nghĩ nhà nước cần: ban hành thống
nhất về tiêu chuẩn người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần nhà nước tại CTCP, tăng thẩm quyền và trách nhiệm đối với người đại diện. Bên cạnh đó quy định cụ thể những vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà nước thì người trực tiếp quản lý phần vốn nhà nước cần xin ý kiến cơ quan chủ quản trước khi biểu quyết ở đại hội cổ đông. Đồng thời cũng phải quy định rõ cơ chế phối hợp, giữa những người quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước tại một doanh nghiệp nhằm tránh việc các cá nhân quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước có ý kiến biểu quyết khác nhau để đảm bảo lợi ích thống nhất của cổ phần nhà nước…
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Về Mức Độ Thị Phần Vốn Của Nhà Nước Trong Tiến Trình Cổ Phần Hóa Doanh Nghiệp Nhà Nước
- Lựa Chọn Các Hình Thức Và Mức Độ Cổ Phần Hóa Đối Với Các Dnnn
- Số Lượng Cổ Phần Ưu Đãi Cho Một Năm Công Tác Của Người Lao Động Ở Một Số Ctcp
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Thanh Hóa - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Thứ năm, tạo điều kiện để hình thành và phát triển TTCK.
TTCK có vai trò tích cực đối với nền kinh tế thị trường, nó khuyến khích nhân dân tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Đặc biệt TTCK là điều kiện, tiền đề quan trọng cho quá trình CPH vì TTCK và CPH có mối quan hệ biện chứng tác động tương hỗ lẫn nhau. TTCK là nơi trao đổi cổ phiếu giữa các CTCP, CTCP là nguồn cung cấp cổ phiếu cho TTCK. Nói cách khác, nhờ TTCK các doanh nghiệp mới có thể bán và phát hành cổ phiếu, trái phiếu, song theo quy luật cung cầu ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của những công ty kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi… Và dân chúng cũng chỉ mua cổ phiếu, trái phiếu của những công ty làm ăn phát đạt. Như vậy với sức ép của TTCK và người mua cổ phiếu đòi hỏi các công ty phải tính toán làm ăn rõ ràng hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa khi tham gia TTCK buộc các doanh nghiệp phải công bố công khai các loại báo cáo như: báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh hàng quý, hàng tháng, hàng năm trước công chúng, qua đó công chúng có đủ điều kiện đánh giá được hoạt động kinh doanh của công ty. Ngược lại doanh nghiệp và các CTCP lại tác động trở lại TTCK với tư cách là chủ thể tham gia TTCK (là người cung cấp hàng cho TTCK).
Tóm lại TTCK và CTCP có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
TTCK là một trong những điều kiện, tiền đề cho CPH. Vì vậy để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN nhà nước cần tạo điều kiện sao cho TTCK phát triển sâu rộng là cần thiết khách quan.
Thứ sáu, thành lập được các tổ chức trung gian hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiên CPH.
Để giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện CPH, nhà nước cần nghiên cứu và thành lập các tổ chức trung gian như: Công ty tư vấn bán nợ và tài sản doanh nghiệp, công ty tư vấn cổ phần hóa, công ty định giá tài sản, công ty tư vấn xây dựng phương án CPH, dịch vụ phát hành cổ phiếu… để cùng với công ty đầu tư chứng khoán sẽ đảm nhận các nhiệm vụ tư vấn cổ phần DNNN, làm dịch vụ phát hành cổ phiếu, đầu tư mua cổ phiếu, môi giới cho vay vốn đầu tư mua cổ phần, tư vấn quản lý doanh nghiệp sau CPH, bán phần vốn nhà nước ở các CTCP…
Thứ bảy, cần tiếp tục củng cố ban đổi mới phát triển DNNN các cấp đủ trình độ tinh thông nghiệp vụ, đồng thời phải đẩy mạnh và phát huy tốt vai trò của quỹ hỗ trợ CPH DNNN
Để tiến độ CPH DNNN đảm bảo lộ trình đạt được các mục tiêu của CPH nhà nước cần chú trọng đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế cho các doanh nghiệp. Trong đó chú trọng đào tạo trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ kiểm soát viên trong các CTCP vì đây là lực lượng đảm bảo cho các CTCP hoạt động đúng luật, lành mạnh song hiện tại đội ngũ này ở Thanh Hóa còn nhiều hạn chế. Qua điều tra mới có 22,5% kiểm soát viên có trình độ đại học, 60% có trình độ trung cấp, 17,5% chưa qua đào tạo. Bên cạnh đó Chính phủ cần sửa đổi quy định về chi phí CPH DNNN cho phù hợp. Nên có quy định tối thiểu và tối đa để khắc phục tình trạng: các doanh nghiệp lớn thì chi không hết, các doanh nghiệp nhỏ lại không đủ chi. Đồng thời cần ban hành các cơ chế quản lý CTCP như: xét thi đua khen thưởng, mức lương cơ bản và phụ cấp cho thành viên HĐQT, rồi quy định các thành viên của HĐQT đi nước ngoài như thế nào? Phải xin phép ai… đặc biệt nhà nước cần nghiên cứu để
sớm xây dựng được luật CPH...
Tóm lại, xây dựng phương hướng, lộ trình chung và định hướng cụ thể là rất cần thiết. Điều đó không chỉ tạo điều kiện cho các DNNN trong diện CPH nâng cao tính chủ động mà còn là cơ sở pháp lý, chổ dựa đảm bảo cho công tác CPH DNNN của tỉnh Thanh Hóa đi đúng quỹ đạo và bảo đảm thực hiện đúng tiến độ.
Tính hiện thực và tính khả thi của phương hướng nói trên cần có những giải pháp cơ bản thích hợp và đồng bộ để giải quyết tốt những vướng mắc cho các DNNN trong tiến trình CPH và cho các CTCP từ DNNN.
Việc bổ sung sửa đổi, hoàn thiện các chính sách là việc làm cấp thiết có tính chất quyết định sự thành bại của công tác CPH DNNN. Vì vậy các chính sách của Đảng, nhà nước phải có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong và sau CPH DNNN.
KẾT LUẬN
Thực hiện CPH DNNN theo lộ trình mà Chính phủ đã phê duyệt cho tỉnh Thanh Hóa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với xu thế mở cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước. Để góp phần vào tiến trình CPH DNNN của tỉnh, luận văn đã tập trung luận giải một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, đã lựa chọn và phân tích có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về CPH nói chung, khẳng định CPH DNNN là sự lựa chọn đúng đắn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, là vấn đề có tính phổ biến của nhiều nước trên thế giới, là quan điểm nhất quán của Đảng và nhà nước ta trong quá trình cải tạo, cấu trúc lại DNNN và khẳng định CPH không phải là tư nhân hóa mà là thực hiện xã hội hoá về vốn.
Hai là, làm rõ mục tiêu CPH DNNN và kinh nghiệm thực tiễn CPH
DNNN ở nước ta và một số tỉnh, thành phố trong nước kể cả kinh nghiệm thành công và chưa thành công có tác dụng gợi mở cho việc vận dụng và tránh được những vấp váp trong tiến trình CPH DNNN ở Thanh Hóa.
Ba là, Trên cơ sở khái quát tình hình DNNN của tỉnh Thanh Hóa trên nhiều phương diện như: số lượng, cơ cấu, vốn, công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh … từ những năm 1990 đến nay,khẳng định trong quá trình vận động DNNN của tỉnh Thanh Hóa tuy đã đạt được những thành tựu nhất định, song cho đến trước ngày CPH DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết tật và yếu kém.
Bốn là, Bằng những số liệu có chọn lọc và cập nhật, luận văn phân tích thực trạng CPH DNNN của tỉnh Thanh Hóa đưa ra những đánh giá về thành tựu và hạn chế, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến độ CPH DNNN của tỉnh thời gian qua. Đặc biệt đã đưa ra những vấn đề mới nãy sinh cần giải quyết để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN trong thời gian tới ở Thanh Hóa.
Năm là, khẳng định việc tiếp tục đẩy mạnh CPH DNNN ở nước ta nói chung và Thanh Hóa nói riêng khi công cuộc cải cách kinh tế của đất nước đã đi vào chiều sâu và mở cửa hội nhập quốc tế càng trở nên tất yếu và cấp bách hơn.
Sáu là, trên cơ sở khảo cứu thực tế DNNN trong diện CPH và các CTCP từ DNNN của tỉnh, luận văn đã đề xuất phương hướng mục tiêu tổng quát, và định hướng lộ trình mục tiêu cụ thể của CPH DNNN thời gian tới.
Bảy là, để thực hiện tốt phương hướng mục tiêu CPH DNNN, luận văn đã đề xuất 3 nhóm giải pháp cơ bản như:
- Giải pháp tiếp tục nâng cao sự thống nhất về nhận thức trong các cấp
,các ngành và trong dân cư qua các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương CPH DNNN
- Giải pháp tháo gỡ những mắc mứu, tồn tại trong tiến trình CPH DNNN của những năm tới trên các mặt lựa chọn DNNN để CPH, xác định giá trị doanh nghiệp, giải quyết đúng chính sách ưu đải đối với người lao động trong
qua trình cổ phần hóa v.v.
- Giải pháp sau CPH nhằm tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh đối với các CTCP từ các DNNN.
Tám là, để tăng tính khả thi của các nhóm giải pháp trên, luận văn kiến nghị với Nhà nước cần bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện một số điều khoản trong một số chính sách liên quan đến CPH DNNN và liên quan đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các CTCP từ DNNN sau CPH ở tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trương Văn Bàn, Bàn về cải cách toàn diện DNNN.
[2]. Nguyễn Thị Bằng, Góp thêm ý kiến về CPH DNNN tạp chí tài chính tháng 3/1994
[3]. Nguyễn Trọng Bảo, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp trong nước trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, NXB giáo dục, 1998
[4]. Báo nhân dân , “Một số kết quả cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội”, số ra ngày 21 tháng 4 năm 2004
[5]. “Cổ phần hóa, giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, CTCP”,
thông tin kinh tế đối ngoại, NXB Chính trị Quốc gia, 2002
[6]. Phạm Văn Dũng - Phạm Mạnh Thường, Một số vấn đề tài chính khi tiến hành CPH DNNN, tạp chí Tài chính tháng 8/196.
[7]. Đỗ Ngụ Điệp, Chủ nghĩa tư bản ngày nay tự điều chỉnh kinh tế, NXB Khoa học xã hội, 1993.
[8]. Võ Văn Đức, Thử tìm nguyên nhân và giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN, nghiên cứu lý luận số 6/1997.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật Hà Nội, 1987.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị Quốc gia, 1991.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần VIII, NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần IX, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, BCH TW Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu