Bối Cảnh Lịch Sử Mới Và Yêu Cầu Tiếp Tục Đẩy Mạnh Chuyển Biến Kinh Tế, Xã Hội Huyện Mỹ Đức


danh hiệu ”Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (trong đó có 18 bà mẹ được các cơ quan đoàn thể nhận phụng dưỡng suốt đời) [67, tr 6].

Hàng năm, bằng nguồn ngân sách, huyện tiếp tục dành hàng trăm triệu đồng thăm hỏi, tặng quà gia đình, đối tượng chính sách. Xã Đại Hưng đã tặng sổ tình nghĩa cho 100% hộ gia đình thuộc đối tượng chính sách vào năm 1993 [8, tr 288]. Vào ngày kỷ niệm và tết cổ truyền, huyện và xã đều tổ chức thăm hỏi tặng quà cho trên 5000 hộ thuộc diện chính sách.

Bằng sự chỉ đạo đúng đắn, đầu tư đúng hướng, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn ngày một thay đổi. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ XVIII đang trở thành hiện thực.


Tiểu kết chương 2

Huyện Mỹ Đức đã có những lợi thế thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội: điều kiện tự nhiên, dân cư và truyền thống lịch sử. Đó là những nhân tố hết sức quan trọng, tạo tiền đề để kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức chuyển biến và mang đặc trưng của địa phương.

Trước khi tái nhập vào tỉnh Hà Tây, tình hình kinh tế, xã hội của Mỹ Đức không có chuyển biến nào đáng kể. Huyện Mỹ Đức vẫn là một huyện nghèo so với 23 huyện thị khác của tỉnh Hà Sơn Bình. Kinh tế chủ yếu ”luẩn quẩn” trong tình trạng kinh tế thuần nông, đời sống nhân dân còn khó khăn và lạc hậu

Tình hình kinh tế của huyện Mỹ Đức trước năm 1991, cơ bản vẫn là kinh tế nông nghiệp, sản xuất chủ yếu là trồng lúa và chăn nuôi con giống truyền thống (trâu, bò, lợn gà...). Các ngành kinh tế khác phát triển chậm, thậm chí chưa trở thành ngành kinh tế độc lập, chỉ mang tính chất hỗ trợ cho nghề nông. Kinh tế nông nghiệp chủ yếu là kinh tế hợp tác xã, chưa có sự phân vùng kinh tế sản xuất mang tính chất chuyên môn hóa. Kinh tế du lịch chưa được khai thác đúng mức để đóng góp giá trị kinh tế.

Đặc trưng kinh tế đã tạo nên đặc trưng xã hội huyện Mỹ Đức thời kỳ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.


này chưa có sự chuyển biến sâu sắc. Dân số chủ yếu vẫn làm nghề nông, chưa có sự phân tầng xã hội sâu sắc, đời sống của nhân dân về vật chất và tinh thần chưa cao.

Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008 - 11

Những kết quả đạt được và hạn chế tồn tại, giúp cho tỉnh Hà Tây khi tiếp nhận quản lý huyện Mỹ Đức có chính sách phát triển phù hợp. Vì vậy, từ năm 1991, khi huyện Mỹ Đức tái nhập tỉnh Hà Tây, kinh tế, xã hội có sự chuyển biến đáng kể: Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, còn phát triển nghề công nghiệp, dịch vụ, du lịch.. và bản thân nội bộ ngành nông nghiệp có sự thay đổi về cơ cấu, về tổ chức sản xuất. Sự chuyển biến kinh tế đó vận hành theo sự vận hành của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đời sống nhân dân ổn định, kinh tế tư nhân bước đầu được phát triển, có điều kiện cải thiện đời sống, mua sắm trang thiết bị cho gia đình, đóng góp vào xây dựng công trình phúc lợi, đưa điện vào nông thôn.

Tuy nhiên, với những kết quả đạt được cho thấy sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện chưa mạnh mẽ, vẫn là huyện có nhiều tiềm năng, nhưng tiềm năng mới đều dừng lại ở khả năng, chưa mang lại hiệu quả tương xứng:

- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có nhiều tiến bộ tích cực nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu. Hơn nữa, Mỹ Đức còn hạn chế trong việc vận động thu hút vốn đầu tư, tài trợ của tỉnh, trung ương và nước ngoài để củng cố và mở rộng cơ sở hạ tầng.

- Lao động xã hội ngày càng tăng, song lao động có trình độ được đào tạo quá thiếu, nhất là lao động biết ngoại ngữ. Điều này, ảnh hưởng không nhỏ đến ngành du lịch- thế mạnh kinh tế của huyện. Trước yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, việc đào tạo cán bộ có trình độ trở thành vấn đề cấp bách mà huyện Mỹ Đức cần phải vượt qua để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Năm 1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng quyết định chuyển đất nước sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bước vào thời kỳ mới, những thành tựu đạt được trong 10 năm đầu đổi mới đó là nền cơ sở để thế và lực của Mỹ Đức không ngừng được nâng lên, bắt nhịp cùng quá trình phát triển của đất nước.


Chương 3

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN MỸ ĐỨC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2008


3.1. Bối cảnh lịch sử mới và yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Mỹ Đức

3.1.1. Bối cảnh lịch sử

Năm 1996, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi, tác động chuyển biến kinh tế, xã hội của Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng, trong đó có huyện Mỹ Đức.

Trên thế giới, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và mang tính tất yếu khách quan. Quá trình toàn cầu hóa đã lôi cuốn mọi quốc gia, dân tộc. Các quốc gia vừa hợp tác vừa cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Đồng thời, tăng cường các mối quan hệ đa phương, song phương cùng nhau giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, bùng nổ dân số, tội phạm quốc tế, các dịch bệnh lớn...; Khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; kinh tế tri thức ngày càng có vai trò quan trọng với mọi quốc gia, dân tộc, thúc đẩy sự chuyển biến cơ cấu kinh tế và xã hội.

Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với tiền đề cần thiết cho sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được tạo ra: Quan hệ của nước ta được mở rộng, khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là những thuận lợi cơ bản. Tuy nhiên, những thách thức từ các nguy cơ về tụt hậu, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng và diễn biến hòa bình vẫn diễn biến phức tạp. Hoàn cảnh lịch sử mới, đòi hỏi đất nước cũng như địa phương thúc đẩy sự chuyển biến kinh tế, xã hội, tăng sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.


Huyện Mỹ Đức sau 5 năm thuộc sự quản lí của tỉnh Hà Tây, kinh tế, xã hội có những chuyển biến đáng kể. Sự chuyển biến cơ cấu kinh tế đã thúc đẩy sự biến đổi về mặt xã hội. Ở một chừng mực nhất định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương đã được nâng cao một bước.

Hoàn cảnh lịch sử mới của thế giới, Việt Nam cũng như những thành tựu mà nhân dân huyện Mỹ Đức đạt được trong 10 năm đổi mới và 5 năm trở thành một huyện của tỉnh Hà tây là cơ sở quan trọng để địa phương tiếp tục một thời kỳ mới: đẩy mạnh sự chuyển biến kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.1.2. Đường lối, chính sách tiếp tục đối mới phát triển kinh tế, xã hội của Đảng, Nhà nước và sự vận dụng vào thực tiễn địa phương huyện Mỹ Đức

Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [54, tr 466 – 467], năm 1996, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế giai đoạn 1996-2000 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội…, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” [54, tr 545]. Đại hội Đảng lần thứ VIII đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, chủ trương xây dựng một cơ cấu kinh tế toàn diện: cơ cấu ngành, nội ngành, cơ cấu vùng kinh tế:

“- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong, ngoài nước.

- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa...

- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.

- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới, bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,


hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại ”[54, tr 472 - 473].

Đối với các vấn đề xã hội, Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã chủ trương hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau đây: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; thực hiện nhiều hình thức phân phối; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo; các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá” [54; tr 556].

Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI, với quan điểm phát triển một nền kinh tế gắn với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh quốc tế. Đại hội cũng xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là: “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [54, tr.696]. Và chủ trương: “các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp” [54; tr 580].

Như vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm (2001 – 2010) tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chiến lược nêu rõ sự cần thiết khả năng rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Tư tưởng được nhấn mạnh là phát triển nhanh, có hiệu quả


và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh đường lối tiếp tục đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, coi đây là một trọng điểm quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phương hướng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời gian tới sẽ là “chuyển đổi nhanh cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. Ứng dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành sự liên kết công – nông nghiệp – dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn” [54, tr 276].

Trong quá trình thực hiện, đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp không ngừng được bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Ngày 18/3/2002, tại Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 15– NQ/TW về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001– 2010. Nghị quyết đã đưa ra những quan điểm toàn diện về CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong tình hình hiện nay; đồng thời đưa ra những chủ trương đẩy mạnh hơn nữa con đường phát triển kinh tế nông nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu chung của nền nông nghiệp đất nước là: “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại” [54; tr 96]. Với mục tiêu tổng quát và lâu dài của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn của Đảng sẽ là điều kiện quan trọng để kinh tế nông nghiệp tiếp tục đạt thêm nhiều kết quả, thành tựu


mới, bộ mặt xã hội nông thôn văn minh hơn và đời sống nông dân ngày càng cải thiện.

Đại hội Đảng lần thứ X (2006), tiếp tục đẩy mạnh: “phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương” [54, tr 595].

Tháng 7/2008, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng khóa X tiếp tục khẳng định cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn tiếp tục giữ vị trí, vai trò chiến lược, “là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Do đó, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt” [54, tr 2].

Như vậy, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ này qua các kỳ Đại hội VIII đến đại hội X đều tập trung vào phát triển kinh tế, xã hội:

Về kinh tế: xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Về xã hội: tăng trưởng kinh tế phải gắn với các mục tiêu xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Tiếp thu tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hà tây đã tổ chức đại hội lần thứ XII ngày 27/4/1996. Đại hội đã đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn nhằm phát huy tốt tiềm hơn tiềm năng, lợi thế sẵn có, đưa kinh tế, xã hội của tỉnh phát triển cao hơn, có cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đúng hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.


Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, Đại hội Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần XIX (1996) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm (1996 - 2000):

“Phát triển sản xuất toàn diện theo cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, nhất là kinh tế hộ gia đình, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. Giải quyết thêm việc làm cho người lao động, hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số. Đảm bảo tốt hơn việc học tập, chữa bệnh cho nhân dân. Coi trọng thực hiện chính sách xã hội. Ngăn chặn đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực. Tăng cường củng cố quốc phòng, ổn định chính trị, giữ vững an ninh trật tự xã hội” [8; tr 293].

Mục tiêu phấn đấu đến năm 2000, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã đặt ra:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP hàng năm 10 - 11 %. Bình quân đầu người đến năm 2000 đạt từ 325 đến 400 USD.

- Đẩy mạnh phát triển nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng

- dịch vụ du lịch, đến năm 2000 có cơ cấu: nông lâm nghiệp (50%) - tiểu thủ công nghiệp xây dựng (20%) - dịch vụ du lịch (30%).

- Sản lượng lương thực 90.000 tấn, trong đó: thóc 75.000 tấn, màu quy thóc 15.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người 500 kg.

- Cải thiện đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân. Năm 2000, không còn hộ chính sách đói nghèo, giảm số hộ nghèo trong huyện còn 5 %.

- Tỷ lệ phát triển dân số 1,5 %; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; đẩy mạnh chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các ngành học, cấp học.

- Phát triển kinh tế, xã hội gắn với xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh, ổn định chính trị, giữ gìn trật tự xã hội [ 63; tr 19].

Để triển khai những chủ trương, chính sách CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XIII đã xác định nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2000 – 2005 của Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh là: “Nắm vững đường lối chủ trương chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước, quan điểm và chỉ đạo của Trung ương, phát huy sức

Xem tất cả 226 trang.

Ngày đăng: 24/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí