Các Hình Thức Cho Thuê Lại Lao Động

động cho thuê lại lao động ở nước ta đã xuất hiện từ những năm 2000 trên thực tế và hoạt động này cũng được đề cập trong một số công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Trong đó đáng chú ý có đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của Đại học Luật Hà Nội: “Cho thuê lại lao động – một hướng điều chỉnh của pháp luật lao động Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” đã khái quát và đưa ra khái niệm cho thuê lại lao động như sau:

Cho thuê lại lao động là việc một DN tiến hành tuyển dụng lao động (ký HĐLĐ với NLĐ) nhưng sau đó cho DN khác thuê lại để sử dụng trong một thời gian nhất định. Trong thời gian làm việc tại DN thuê lại lao động, quyền lợi của NLĐ vẫn do DN cho thuê lao động đảm bảo nhưng NLĐ phải chịu sự giám sát, điều hành của DN thuê lại lao động [20, tr.50].

Từ các khái niệm trên có thể thấy dù được tiếp cận dưới góc độ nào hay cách thể hiện định nghĩa khác nhau nhưng tựu trung lại thì cho thuê lại lao động là một hoạt động đặc biệt với các dấu hiệu đặc trưng riêng như:

- DN cho thuê lại lao động tuyển dụng và ký HĐLĐ với NLĐ nhưng không trực tiếp sử dụng lao động mà cho DN khác thuê lại trong một thời gian nhất định theo hợp đồng cho thuê lại lao động giữa hai DN;

- Quyền lợi của NLĐ cho thuê lại vẫn do DN cho thuê lại lao động thực hiện và đảm bảo với tư cách là NSDLĐ

- Trong thời gian làm việc tại DN thuê lại lao động, NLĐ chịu sự quản lý, giám sát, điều hành trực tiếp của DN thuê lại lao động.

Như vậy, quan hệ cho thuê lại lao động khác với quan hệ lao động thông thường ở chỗ:

Thứ nhất, về chủ thể tham gia: cho thuê lại lao động luôn có sự tham gia của ba chủ thể: (1) DN cho thuê lao động: là bên tuyển dụng và trực tiếp ký HĐLĐ với NLĐ sau đó cho DN khác thuê lại lao động đó nhằm mục đích

nhận được một khoản phí từ dịch vụ này. Cho thuê lại lao động là một ngành nghề kinh doanh của DN cho thuê lại lao động và DN này phải đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định mới được thực hiện dịch vụ này; (2) DN thuê lại lao động: là bên thuê lại lao động từ DN cho thuê lao động để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình trong trường hợp thiếu hụt lao động hoặc cần lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao trong một thời gian nhất định,… và (3) NLĐ cho thuê lại: là NLĐ đã ký HĐLĐ với DN cho thuê lao động nhưng không làm việc trực tiếp cho DN này mà được DN khác thuê lại trong một thời gian nhất định. Trong thời gian làm việc tại DN thuê lại lao động, NLĐ phải chịu sự quản lý, giám sát, điều hành trực tiếp từ DN thuê lại lao động nhưng quan hệ lao động (HĐLĐ) vẫn được duy trì với DN cho thuê lao động. Điều này có nghĩa quyền lợi cơ bản như tiền lương, BHXH, BHYT,… của NLĐ sẽ do DN cho thuê lao động thực hiện.

Thứ hai, về căn cứ phát sinh: trong quan hệ cho thuê lao động, có ba căn cứ làm phát sinh mối quan hệ của các chủ thể tham gia, bao gồm: (i) HĐLĐ làm phát sinh quan hệ giữa DN cho thuê lao động và NLĐ được cho thuê lại;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

(ii) Hợp đồng cho thuê lại lao động làm phát sinh quan hệ giữa DN cho thuê lao động và DN thuê lại lao động; (iii) Hành vi sử dụng lao động thực tế làm phát sinh quan hệ giữa NLĐ được cho thuê lại và DN thuê lại lao động. Mối quan hệ của ba chủ thể này, xét về bản chất là quan hệ ba bên (quan hệ mang hình tam giác) với sự tham gia của bên cho thuê lại lao động (DN cho thuê lao động), NLĐ được thuê lại và bên thuê lại lao động (DN thuê lại lao động).

Thứ ba, về quyền quản lý điều hành: bên sử dụng lao động trực tiếp (bên thuê lao động) lại không ký kết HĐLĐ với NLĐ mà thông qua một chủ thể khác là bên cho thuê lao động và bên thuê lao động có quyền quản lý, điều hành trực tiếp NLĐ. Như vậy quan hệ cho thuê lao động đã có sự chuyển giao quyền quản lý điều hành đi kèm với sự chuyển giao quyền sử dụng lao động

Cho thuê lại lao động theo pháp luật lao động Việt Nam - 3

từ chủ thể ký HĐLĐ sang chủ thể thực tế sử dụng lao động. Đây là một trong những đặc điểm đặc trưng của hoạt động cho thuê lại lao động.

Thứ tư, khác với các HĐLĐ thông thường, đối với hợp đồng cho thuê lại lao động, khi kết thúc hợp đồng cho thuê lại lao động, bên cho thuê lại lao động có nghĩa vụ nhận lại NLĐ từ chủ thể thuê và bố trí việc làm tiếp theo cho NLĐ.

1.1.2. Đặc điểm cho thuê lại lao động

Thực tế đã chứng minh, cho thuê lại lao động mới xuất hiện phổ biến từ những thập niên 60-70 của thế kỷ XX ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường như Mỹ và các nước Tây Âu. Từ những năm 1970, ở nhiều nước phát triển ,

kinh phí cho các dic̣ h vu ̣viêc

làm công côn

g giảm , tạo cơ hội cho các trung

tâm dic̣ h vu ̣viêc

làm tam

thời phát triển . Sự tăng trưởng của các trung tâm

dịch vụ việc làm tạm thời nả y sinh trên nhu cầu cần thiết phải cung cấp các dịch vụ cho thị trường lao động đang phát triển nhanh và linh hoạt . Từ đó mô hình dịch vụ cung ứng lao động ra đời như một thực tế tất yếu của thị trường lao động mặc dù thời gian đầu cũng có khá nhiều tranh luận xung quanh loại hình dịch vụ này.

Một minh chứng rõ ràng cho khẳng định trên là Hoa Kỳ. Trong hai thập kỷ qua, nhu cầu ngày càng tăng về cung cấp dịch vụ cho một thị trường lao động phát triển nhanh chóng và linh hoạt đã dẫn đến sự tăng trưởng ngoạn mục của các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân. Các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của thị trường lao động. Trong bối cảnh thị trường lao động quốc gia và toàn cầu có nhiều biến động, thị phần của các cơ quan dịch vụ việc là tư nhân đã liên tục tăng và hoạt động kinh doanh của họ được mở rộng. Những tổ chức này đã bố trí việc làm cho trên 8 triệu lao động trên toàn thế giới và đã tăng cường việc làm của người tìm việc bằng cách giữ liên lạc với thị trường việc làm và thông qua đào tạo [20, tr.66].

Ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ XXI, nền kinh tế có những bước chuyển biến rõ rệt, đặc biệt là chủ trương bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường. Trong những năm này dịch vụ cho thuê lại lao động cũng bước đầu hình thành ở nước ta xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh như một hệ quả tất yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên thời điểm này dịch vụ cho thuê lại lao động chưa thực sự phổ biến trên cả nước và loại hình dịch vụ này cũng chưa được thừa nhận, chưa có pháp luật điều chỉnh. Trong những năm tiếp theo hoạt động cho thuê lại lao động ở nước ta ngày càng phổ biến xuất phát từ nhu cầu có thật về thuê lao động của các DN. Đến năm 2012, Bộ luật Lao động mới chính thức ghi nhận hoạt động này. Cho thuê lại lao động có các đặc điểm chính sau:

Thứ nhất, cho thuê lại lao động vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính

xã hội

Về mặt kinh tế, hoạt động lao động luôn chịu sự điều tiết của các quy luật

kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu. DN kinh doanh hoạt động cho thuê lại lao động tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động cho thuê lại lao động. Còn đối với DN thuê lao động thì giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực trong một thời gian nhất định bởi nhu cầu về lao động của DN thay đổi theo khối lượng đơn đặt hàng. Trong khi đó khối lượng đơn đặt hàng có thể thay đổi phụ thuộc vào thời vụ hay chu kỳ tăng trưởng và các yếu tố thị trường khác. Sự tăng giảm đơn đặt hàng thường kéo theo sự tăng, giảm về nhu cầu sử dụng lao động. Chi phí lao động là một yếu tố cấu thành giá thành sản phẩm nên DN luôn phải tính toán để không phải chi phí cho lao động dư dôi do khối lượng đơn hàng giảm. Bởi vậy phương án thuê lại lao động là phương án tối ưu để giải quyết bài toán này. Hơn nữa, sử dụng dịch vụ thuê lao động DN cũng không phải mất nhiều thời gian cho quy trình tuyển dụng, hạn chế chi phí đào tạo, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh.

Về mặt xã hội, cho thuê lại lao động đem lại cơ hội việc làm cho NLĐ, góp phần giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, đời sống của chính NLĐ và gia đình họ được đảm bảo, xã hội, đất nước ngày một phồn thịnh. Ngoài ra cho thuê lại lao động còn giúp cho thị trường lao động trở nên linh hoạt và năng động, góp phần thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

Như vậy, cho thuê laị lao đông là sự tổng hòa các yếu tố kinh tế và xã

hôị. Nó không chỉ liên quan đến việc làm , giải quyết việc làm , hạn chế thất nghiêp̣ , bảo đảm đời sống c ho NLĐ ,… mà còn liên quan đến đầu tư nguồn

nhân lưc

, thu nhâp

, thu hút đầu tư , tăng trưởng và phát triển DN cũng như

toàn bộ nền kinh tế xã hội.

Thứ hai, khác với chủ thể của quan hệ lao động thông thường, chủ thể của quan hệ cho thuê lại lao động gồm ba chủ thể với những mối quan hệ khác nhau.

Như trong phần “khái niệm cho thuê lại lao động” đã đề cập, cho thuê lại lao động luôn có sự tham gia của ba chủ thể đó là (i) DN cho thuê lao động, (ii) NLĐ cho thuê lại và (iii) DN thuê lại lao động. Hoạt động cho thuê lại lao động xuất hiện ba loại quan hệ pháp luật khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau: (i) Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động và NLĐ; (ii) Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động với DN thuê lại lao động; (iii) Quan hệ giữa DN thuê lao động với NLĐ được thuê lại.

- Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động và NLĐ

DN cho thuê lao động là người trực tiếp tuyển dụng và ký HĐLĐ với NLĐ. DN cho thuê lao động cũng chịu trách nhiệm trả lương và đảm bảo các quyền lợi của NLĐ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động và NLĐ là quan hệ pháp luật lao động. Trong đó, DN cho thuê lao động là NSDLĐ và lao động được cho thuê lại là NLĐ. Thông thường pháp luật lao động của các quốc gia đều coi hoạt động cho thuê

lao động là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, ngoài các điều kiện chung của NSDLĐ thì DN cho thuê lao động còn phải đáp ứng thêm các điều kiện riêng của DN cho thuê lao động.

- Quan hệ pháp luật giữa DN cho thuê lao động với DN thuê lại lao động Về thực chất, quan hệ của hai DN này là quan hệ pháp luật trong lĩnh

vực kinh doanh thương mại được hình thành nhằm thỏa mãn nhu cầu về sản xuất, dịch vụ, lợi nhuận thông qua hợp đồng cho thuê lại lao động. Trong khi điều kiện đặt ra đối với DN cho thuê lao động khá khắt khe thì DN thuê lại lao động chỉ cần đáp ứng các điều kiện chung theo pháp luật về kinh doanh thương mại.

Hợp đồng cho thuê lại lao động là căn cứ thể hiện sự ràng buộc quyền lợi và nghĩa vụ giữa DN cho thuê lao động và DN thuê lại lao động. Ngoài quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng, hợp đồng cho thuê lại lao động còn liên quan đến quyền lợi của bên thứ ba là NLĐ cho thuê lại. Trong đó quy định rõ DN cho thuê lao động phải đảm bảo cung ứng NLĐ đủ về số lượng, đúng yêu cầu về chất lượng theo thỏa thuận còn DN thuê lại lao động phải thanh toán đủ và đúng hạn phí dịch vụ thuê lao động, tiền lương, bảo hiểm của NLĐ cho DN thuê lao động,…. DN thuê lại lao động có quyền quản lý trực tiếp, điều hành NLĐ trong thời gian NLĐ làm việc tại DN mình. Khi hợp đồng cho thuê lao động chấm dứt, DN thuê lại lao động sẽ hoàn trả số lao động đã thuê cho DN cho thuê lao động.

- Quan hệ giữa DN thuê lại lao động và NLĐ được thuê lại

Như trên đã đề cập, cho thuê lại lao động luôn tồn tại ba loại chủ thể với ba mối quan hệ. Quan hệ giữa DN cho thuê lao động với NLĐ dựa trên HĐLĐ còn quan hệ giữa DN cho thuê lao động và DN thuê lao động dựa trên hợp đồng cho thuê lại lao động. Vậy quan hệ giữa DN thuê lại lao động và NLĐ được thuê lại dựa trên căn cứ nào? Thực tế pháp luật các quốc gia cũng

như Việt Nam đều không quy định cần có một hợp đồng riêng giữa DN thuê lại lao động và NLĐ mà quan hệ của hai chủ thể này dựa trên hai hợp đồng: HĐLĐ và hợp đồng cho thuê lại lao động. Vì vậy nội dung hai hợp đồng này cần thống nhất với nhau, các bên cũng cần thỏa thuận về điều kiện lao động của NLĐ, loại công việc, ngành nghề mà NLĐ sẽ làm, nơi làm việc, vị trí việc làm của NLĐ, thời giờ làm việc thời giở nghỉ ngơi, các quyền và nghĩa vụ khác của NLĐ được thuê lại, vấn đề sử dụng lao động, …

Quan hệ pháp luật giữa DN thuê lại lao động và NLĐ được thuê lại sẽ chấm dứt trong các trường hợp: hợp đồng cho thuê lại lao động giữa DN cho thuê lao động và DN thuê lại lao động chấm dứt; thời hạn cho thuê lại lao động theo hợp đồng cho thuê lại lao động đã hết hạn; NLĐ được thuê lại bị DN thuê lại lao động trả lại DN cho thuê khi không đáp ứng yêu cầu đã thỏa thuận hoặc vi phạm kỷ luật lao động; DN thuê lại lao động chấm dứt hoạt động; NLĐ được thuê lại chết,…

Thứ ba, cho thuê lại lao động là hoạt động có điều kiện áp dụng đối với một số ngành nghề và đối tượng nhất định.

Hoạt động cho thuê lại lao động đem lại nhiều lợi ích cho các chủ thể liên quan và cho xã hội nhưng bên cạnh đó, hoạt động này cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Vì vậy, pháp luật hầu hết các quốc gia coi cho thuê lại lao động là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Thông thường, pháp luật quy định hai loại điều kiện với hoạt động này: điều kiện về nội dung và điều kiện về thủ tục. Điều kiện về nội dung có thể bao gồm các điều kiện như: quy định giới hạn công việc được phép cho thuê lại lao động, điều kiện về ký quỹ và vốn pháp định, điều kiện về người đứng đầu DN. Điều kiện về thủ tục được thể hiện thông qua quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động

Ví dụ, ở Cộng hòa Liên Bang Đức, DN muốn tiến hành hoạt động cho thuê lại lao động thì phải “xin phép” hoặc “khai báo”. Hoặc pháp luật Nhật

Bản lại quy định hoạt động phái cử lại lao động phải cần được cấp giấy phép hoạt động. Còn ở Trung Quốc, điều kiện của DN cho thuê lao động là phải có mức vốn tối thiểu 500.000 Nhân dân tệ. Việt Nam cũng coi cho thuê lao động là ngành nghề kinh doanh có điều kiện với các điều kiện như: ký quỹ, đảm bảo vốn pháp định, điều kiện về trụ sở, điều kiện cấp giấy phép hoạt động,….

Cho thuê lại lao động thường được áp dụng trong các công việc mang tính chất tạm thời, mùa vụ; các công việc mang tính chất dịch vụ trong thời gian ngắn như phiên dịch, nhân viên marketing, bán hàng, giúp việc gia đình,... hay những công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Hoặc do nguồn lao động thiếu hụt tạm thời như NLĐ của DN thuê lại lao động đang trong thời gian nghỉ thai sản, bị tai nạn lao động,... để đảm bảo tiến độ của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Mặt khác, pháp luật giới hạn cho thuê lại lao động ở một số ngành nghề, công việc nhất định là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ- bên yếu thế hơn trong mối quan hệ ba bên. Việc giới hạn các ngành nghề, công việc được cho thuê lại lao động cũng là hướng quy định chung của hầu hết các quốc gia thừa nhận loại hình dịch vụ việc làm này.

1.1.3. Các hình thức cho thuê lại lao động

Cho thuê lại lao động là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, hoạt động cho thuê lại ngày càng phát triển đa dạng với nhiều hình thức phong phú tùy thuộc vào mục đích của DN hoạt động cho thuê lại lao động. Có DN cho thuê lao động như một ngành nghề kinh doanh chính của DN nhằm mục đích kiếm lời nhưng cũng có DN do không bố trí được việc làm cho NLĐ nên cho thuê lại lao động để đảm bảo việc làm và thu nhập cho họ cho NLĐ. Chính vì vậy, việc phân loại và xác định các trường hợp cho thuê lại lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng luật cho phù hợp. Cho thuê lao động là hoạt động tương đối phong phú và đa dạng nên tùy

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 10/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí