Chính Sách Đầu Tư Và Hỗ Trợ Đầu Tư Sản Xuất Và Chế Biến Nông Sản Xuất Khẩu


sự giúp đỡ, tiến hành các sự kiện xúc tiến thương mại có liên quan. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam định cư ở EU đã góp sức vào việc phát triển vào các quan hệ thương mại giữa 2 bên nhất là trong việc xúc tiến xuất khẩu hàng Việt Nam sang các địa bàn định cư. Tại các nước Pháp, Anh, Đức, Ba Lan, Hungari và Séc nơi có lưu lượng giao thương lớn và truyền thống với Việt Nam – các doanh nghiệp Việt Nam định cư tại đây đều đóng vai trò nổi bật trong hoạt động xúc tiến thương mại

2.2.2.2. Nhóm chính sách điều tiết xuất khẩu nông sản

a) Chính sách thuế quan

Để khuyến khích xuất khẩu thì giai đoạn 2016 – 2020, thuế suất thuế xuất khẩu nông sản đã được Chính phủ đưa về mức 0 đối với các sản phẩm nông sản xuất khẩu.

b) Chính sách phi thuế quan

Hạn ngạch

Để khuyến khích xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu sang EU nói riêng, Việt Nam không có mặt hàng nông sản nào bị cấm xuất khẩu và cũng không có mặt hàng nào bị áp hạn ngạch XK.

Quy định về điều kiện tham gia xuất khẩu nông sản đối với các doanh nghiệp Từ năm 2001, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được phép

xuất khẩu nông sản trực tiếp mà không cần qua doanh nghiệp đầu mối và giấy phép xuất khẩu, không phụ thuộc vào ngành hàng đã đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đăng ký mã số kinh doanh xuất khẩu tại cục hải quan tỉnh, thành phố.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

2.2.2.3. Nhóm chính sách hỗ trợ xuất khẩu nông sản

a) Hỗ trợ trực tiếp cho người xuất khẩu nông sản

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU - 10

Để đảm bảo thực hiện theo các cam kết của các Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam tham gia Việt Nam không thực hiện hỗ trợ trực tiếp (trợ giá, thưởng xuất khẩu) cho người xuất khẩu nông sản.

b) Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nông sản

Với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thông


(Agribank) đã triển khai cho vay vốn hỗ trợ khu vực xuất khẩu nông sản. Trong đó, chủ yếu đầu tư tín dụng cho xuất khẩu gạo, đường, thủy sản, cà phê, cao su, chè, hạt điều, hồ tiêu, cá tra, tôm, cây ăn quả, lương thực khác. Bên cạnh đó, Agribank cũng như một số ngân hàng lớn cam kết ưu tiên cho vay phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao.

2.2.3. Nhóm chính sách khác

2.2.3.1. Chính sách đầu tư và hỗ trợ đầu tư sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu

Các chính sách về hỗ trợ đầu tư sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu được thể hiện trong Nghị định 98/2018/NĐ-CP khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và Nghị định 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ. Nội dung cơ bản của các chính sách này gồm: Hỗ trợ 30% vốn đầu tư máy móc,trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, bến bãi phục vụ sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp (tổng hỗ trợ không quá 10 tỷ đồng).

Xây dựng và sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút doanh nghiệp tập trung đầu tư vào các ngành này; ban hành các chính sách phù hợp bảo đảm tiêu thụ ổn định, bền vững các sản phẩm nông nghiệp, nhất là của vùng sản xuất tập trung lớn và những sản phẩm nông nghiệp chủ lực

Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm định hướng, hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm chủ lực thuộc lĩnh vực nông nghiệp trên cơ sở áp dụng các giải pháp nâng cao năng suất và chất lượng phù hợp với đặc thù của ngành, doanh nghiệp; triển khai các giải pháp hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất, kỹ thuật canh tác và ứng dụng các loại giống cây trồng, vật nuôi mới cho năng suất, chất lượng cao; đổi mới công nghệ trong khai thác, sơ chế, bảo quản, chế biến sâu nhằm tăng giá trị sản phẩm, hàng hóa nông, lâm thủy sản xuất khẩu chủ lực

2.2.3.2. Chính sách hỗ trợ tạo liên kết chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu

Quyết định số 644/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để phát triển cụm liên kết ngành trong chuỗi giá trị khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm hỗ trợ và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh


nghiệp nhỏ và vừa tham gia và phát triển mạng lưới liên kết sản xuất – kinh doanh và dịch vụ trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp. Theo đó tăng cường mối liên kết trong chuỗi cung ứng các sản phẩm nông nghiệp tiềm năng; nâng cao vai trò và năng lực của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Xây dựng và ban hành các cơ chế khuyến khích gắn kết giữa phát triển vùng nguyên liệu với sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông, lâm, thủy sản thông qua các hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng dài hạn, cung ứng nguyên vật liệu đầu vào gắn với tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở rà soát quy hoạch vùng nguyên liệu, các địa phương đẩy mạnh liên kết đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, liên kết sản xuất, chế biến tại chỗ phục vụ xuất khẩu.

Để giải quyết các nút thắt trong tổ chức sản xuất theo quy mô lớn tập trung và mở rộng thị trường xuất khẩu, chính phủ đã cho phép Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành lập Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản theo Quyết định số 1348/QĐ-BNN-TCCB ngày 11/4/2017 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản nhằm tháo gỡ khó khăn, lo đầu ra các sản phẩm nông sản, thực hiện điều phối hoạt động phát triển thị trường, đầu mối quản lý về chế biến, bảo quản nông, lâm thủy sản và muối thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng. Đối với nhiệm vụ phát triển thị trường nông sản quốc tế, Cục sẽ thực hiện công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo và tổng hợp báo cáo về tình hình thị trường nông sản quốc tế theo ngành hàng và theo khu vực thị trường; hướng dẫn chính sách thị trường nông sản, rào cản thương mại; rào cản kỹ thuật về xuất, nhập khẩu nông sản. Cục cũng thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp nước ngoài tìm hiểu môi trường và cơ hội kinh doanh nông sản tại Việt Nam. Cùng với việc tổ chức, sắp xếp lại Cục chế biến nông sản, thủy sản và nghề muối để thành lập Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ phối hợp với Bộ Công thương đánh giá tác động của chính sách thương mại hiện hành cũng như


các cam kết thương mại quốc tế từ đó có giải pháp tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại ở cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, công tác phân tích thông tin, dự báo thị trường đặc biệt là những thị trường trọng điểm như EU sẽ được chú trọng nhằm kịp thời cảnh báo và tập trung tháo gỡ các rào cản, vấn đề phát sinh, tiếp tục đàm phán để có các thỏa thuận song phương với các nước.

2.3. Đánh giá chung về chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU

2.3.1. Những kết quả đạt được của chính sách

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung và sang thị trượng EU nói riêng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước và phù hợp thông lệ quốc tế.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã xây dựng khá đồng bộ hệ thống khung chính sách nhằm gia tăng quản lý, thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản, thể hiện trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau: luật và các văn bản dưới luật, chế tài; các tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia; các chính sách nhằm hỗ trợ nâng cao chất lượng NSXK từ khâu sản xuất, thu hoạch đến chế biến, bảo quản… theo thời gian, hệ thống chính sách từng bước được bổ sung, hoàn chỉnh.

Nhìn chung hệ thống chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản nói chung của Việt Nam là khá đồng bộ, đáp ứng được các tiêu chí về tính hiệu lực, tính hiệu quả của chính sách, tính hữu dụng, tính công bằng. Các chính sách cũng đã phần nào đáp ứng được các yêu cầu của đối tượng chính sách. Điều này được thể hiện cụ thể ở những nội dung sau:

Thứ nhất, hầu hết các chính sách đều được thực thi trong thực tiễn, qua đó đã khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các DN, HTX và hộ nông dân sản xuất, kinh doanh XK nông sản hướng vào chất lượng, góp phần thúc đẩy hình thành các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị hàng hoá trong nước, tham gia chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu, chuyển dịch dần vào phân khúc chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giảm dần việc XK nông sản thô.


Thứ hai, xét về tính hiệu quả của chính sách. Nhờ tác động của hàng loạt các chính sách cùng các chế tài được vận hành trong thực tiễn, chất lượng hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đã không ngừng được cải thiện, từng bước đáp ứng yêu cầu cao của thị trường EU. Kết quả này thể hiện qua khối lượng và giá trị xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU gia tăng trong những năm gần đây và có xu hướng chiếm lĩnh thị trường EU nhiều hơn.

Thứ ba, về tính hữu dụng của chính sách. Với các chính sách đa dạng về đất đai, tín dụng, khuyến khích đầu tư, liên kết, hỗ trợ…triển khai trong thời gian qua, bước đầu đã thu hút được một số DN có tiềm lực đầu tư vào nông nghiệp, thực hiện dịch vụ cung ứng vật tư đầu vào, bao tiêu sản phẩm đầu ra, ứng dụng quy trình, công nghệ bảo quản, chế biến tiên tiến…chất lượng nông sản nhờ đó đã từng bước được cải thiện, đem lại niềm tin cho người tiêu dùng. Các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường và chính sách mặt hàng về nông sản xuất khẩu sang EU đã giúp các nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cập nhật thông tin thị trường, nắm bắt nhu cầu của thị trường để từ đó xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp, tạo nguồn hàng nông sản đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường để gia tăng xuất khẩu vào thị trường này.

Cuối cùng, về tính công bằng của chính sách. Nhìn chung, các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang EU đều hướng tới đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Các cá nhân, tổ chức đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận những ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước khi tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản sang thị trường EU nói riêng.

2.3.2. Những tồn tại của chính sách

Chính sách đất đai. Những tồn tại của chính sách đất đai đối với sản xuất nông sản xuất khẩu thể hiện ở những điểm sau: (1) Luật Đất đai của Nhà nước giới hạn mức hạn điền vì thế việc chuyển nhượng đất đai vượt quá hạn điền khiến nhà sản xuất chịu các loại thu chi phí cao hơn; (2) Điều kiện và thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện chuyển đổi còn phức tạp và thời gian kéo dài.


Chính sách về khoa học – công nghệ, chính sách chưa có những biện pháp để tăng cường sự liên kết trực tiếp giữa các cơ quan nghiên cứu với người sản xuất cũng như chưa có cơ chế thúc đẩy liên kết giữa người sản xuất là nông dân với DN trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Các biện pháp hỗ trợ về giá mới chỉ được thực hiện đối với giá giống cây con, mới đưa vào sản xuất và hỗ trợ một lần. Chính sách của Nhà nước chủ yếu dưới dạng Nghị định và mới dừng lại ở chủ trương định hướng mà chưa ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc ban hành chậm.

Về chính sách tín dụng, mức ưu đãi về tín dụng đặc biệt ưu đãi về lãi suất vay là khá hấp dẫn. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn chưa có cơ chế thực thi rõ ràng để người sản xuất có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức được thuận lợi. Trên thực tế các nhà sản xuất nông nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Những ưu đãi về vốn và lãi suất chưa được quy định thành văn bản mà được xét duyệt theo từng dự án, theo kế hoạch từng năm. Ngoài ra, các thủ tục và điều kiện để được hưởng các ưu đãi còn rất phức tạp. Ngoài ra, các hỗ trợ hay ưu đãi về tài chính thường hay gắn vào dự án hỗ trợ sau đầu tư nên các doanh nghiệp, hợp tác xã muốn tham gia phải có tiềm lực.

Về chính sách bảo hiểm, mặc dù đã có những quy định nhằm tạo hành lang pháp lý và khuyến khích người sản xuất tham gia bảo hiểm nông nghiệp. Tuy nhiên, việc triển khai các chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa thành công bởi rủi ro trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn và thường xuyên. Nếu chỉ bảo hiểm theo hướng kinh doanh đơn thuần thì không có doanh nghiệp bảo hiểm nào muốn chọn bảo hiểm nông nghiệp vì nguy cơ thua lỗ cao. Nếu triển khai bảo hiểm nông nghiệp thì cũng chọn đối tượng ít có rủi ro để nhận bảo hiểm hoặc tiến hành một cách cầm chừng;

Chính sách mặt hàng xuất khẩu chưa xác định được đúng và đủ các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Về cơ bản xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa trên nền tảng xuất khẩu những sản phẩm hiện có mà chưa phải là những sản phẩm thị trường Eu cần. Bởi vậy, việc quy hoạch, lựa chọn mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực trong từng thời kỳ là rất quan trọng. Chính sách mặt hàng chưa xác


định được thị trường trọng điểm với từng mặt hàng để định hướng phát triển nguồn hàng, thu mua và chế biến hợp lý, đồng bộ. Các doanh nghiệp xuất khẩu thường bị động trong việc thu gom hàng hóa để xuất khẩu.

Ngoài ra, việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển xuất khẩu nông sản sang thị trường EU vẫn còn chậm chễ. Những chủ trương chính sách của Nhà nước đưa ra là định hướng chiến lược, còn khả năng thực thi chính sách còn phù thuộc vào quy hoạch, kế hoạch phát triển trong từng thời kỳ.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU còn tồn tại một số hạn chế. Các nguyên nhân của những hạn chế đó rất nhiều, tuy nhiên có thể khái quát ở một số nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:

- Chính sách đất đai: Hệ thống pháp luật của Nhà nước chưa thật sự hoàn thiện. Một số nội dung trong Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ… còn chưa minh bạch, rõ ràng dẫn đến công tác thực thi chính sách chưa hiệu quả. Chưa hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được đất đai, nhất là các dự án đầu tư vào chế biến sâu sản phẩm, cụm liên hoàn sản xuất - sơ chế - bảo quản - chế biến công nghiệp để giảm tổn thất sau thu hoạch.

- Chính sách về khoa học – công nghệ: Nhìn chung, Nhà nước luôn có sự quan tâm, đầu tư lớn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất và chế biến còn hạn chế, chưa mang tính đồng bộ, vì thế chất lượng nông sản Việt Nam thường thấp, không đồng đều dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh, ngoài ra Nhà nước chưa có chính sách phù hợp hỗ trợ giảm chi phí vận chuyển nội địa và vận chuyển bằng đường biển, đường hàng không khiến cho giá nông sản kém khả năng cạnh tranh do đặc thù hàng nông sản có tính chất tươi sống, cần có công nghệ bảo quản tốt và thời gian vận chuyển cần nhanh.

- Chính sách tín dụng: Thủ tục hành chính liên quan đến XKNS mặc dù đã được cải thiện nhiều nhưng đến nay vẫn còn khá phức tạp, mất nhiều thời gian như thủ tục cho vay vốn dẫn đến các chính sách thúc đẩy xuất khẩu không


đảm bảo tính khả thi , kinh phí dành cho hoạt động xúc tiến thương mại ít và có xu hướng giảm mạnh, cách thức triển khai không đổi mới, hiệu quả thấp.

- Chính sách bảo hiểm: Thiếu sự phối hợp giữa các công ty bảo hiểm với chính quyền địa phương nên dẫn đến tình trạng giám sát kém, thông báo dịch, thiên tai chậm. Chưa có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm (tái bảo hiểm một phần) khi gặp rủi ro bất khả kháng do dịch bệnh, thiên tai. Thiếu cơ chế khuyến khích tham gia vào chương trình bảo hiểm nông nghiệp của khối ngân hàng, trong khi đây là chủ thể thực hiện các chương trình, chính sách lớn của Chính phủ trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Chưa ban hành khung chính sách để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhằm mục đích huy động nhiều nguồn lực hơn nữa để thúc đẩy bảo hiểm nông nghiệp

- Chính sách mặt hàng xuất khẩu chưa xác định được đúng và đủ các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực: Quy mô sản xuất trong nước nhỏ lẻ với 80% nông dân có diện tích dưới 1 ha. Điều này hạn chế việc sản xuất sản phẩm đồng bộ, chất lượng đồng đều. Sản phẩm xuất khẩu chịu sự cạnh tranh quyết liệt trong khi nguồn lực hỗ trợ cho nông nghiệp còn hạn chế. Tổng đầu tư cho ngành nông lâm thuỷ sản chỉ chiếm 5,69% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong bối cảnh hội nhập mạnh, các quốc gia ngày càng nâng cao các rào cản phi thuế quan để bảo về thị trường trong nước. Một số nước thay đổi chính sách nhập khẩu thường xuyên cũng gây khó khăn cho nông sản Việt Nam. Hệ thống thông tin và phân tích thị trường còn hạn chế, khung pháp lý chưa được đầu tư đầy đủ. Hệ thống dịch vụ công chưa đáp ứng được yêu cầu (công tác kiểm tra, giám sát và quản lý chất lượng còn hạn chế ảnh hưởng tới chất lượng hàng xuất khẩu). Công nghiệp hỗ trợ (dịch vụ logistics) còn yếu, đặc biệt trong khâu vận chuyển và bảo quản. Thiếu phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông sản. Các chính sách trong thời gian gần đây được xây dựng khá đầy đủ nhưng sự hỗ trợ còn hạn chế, chưa đi vào thực tiễn, nhất là thúc đẩy các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/02/2023