Một Số Đặc Điểm Của Doanh Nghiệp Công Ích

Mặc dù vậy HHCC thuần túy và không thuần túy cũng chỉ có giới hạn tương đối. Nếu như truyền hình ở một số nước là không thể loại trừ và không kình địch thì ở một số nước khác, với sự ra đời của truyền hình cáp, hoàn toàn có thể loại trừ ai đó muốn sử dụng. Từ những đặc điểm của các loại HHCC nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét:

- Một số HHCC khu vực kinh tế tư nhân không muốn tham gia sản xuất và cung ứng do tính phi hiệu quả của nó. Nguyên tắc hoạt động của khu vực này là vì lợi nhuận chứ không phải vì lợi ích xã hội, do đó nếu không thể tính toán một cách chính xác chi phí cũng như không thể loại trừ đối tượng sử dụng thì đương nhiên họ sẽ không làm.

- Một số loại HHCC khác khu vực tư nhân không thể cung cấp do chi phí đầu tư quá lớn hoặc đòi hỏi công nghệ quá hiện đại, điển hình là việc xây dựng các loại cầu lớn, mạng lưới phát thanh truyền hình, đường sá giao thông hay công nghệ vũ trụ.

- Trong một số lĩnh vực cung cấp HHCC khác, khu vực tư nhân không được tham gia do luật pháp quy định. Bởi vì đây có thể là những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự ổn định trật tự an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh hay đê điều phòng chống lụt bão. Nhưng những HHCC này lại có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì sự ổn định chung, dựa vào đó các hoạt động kinh tế - xã hội khác mới diễn ra thông suốt và hiệu quả do vậy không ai khác mà chính Nhà nước phải đảm nhiệm việc cung cấp.

Mặc dù có sự khác biệt như vậy nhưng xét theo quan điểm lịch sử cụ thể có thể khái quát, quan niệm về HHCC ở nước ta hiện nay là phù hợp và thống nhất với khoa học kinh tế hiện đại.GIáo trình Kinh tế công cộng Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội và sách tham khảo của Học viện Hành chính quốc gia định nghĩa: "HHCC là những loại hàng hóa mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó". Các định nghĩa, đặc điểm, nguyên lý cơ chế quản lý và tổ chức sản xuất đều tham khảo kế thừa các tài liệu nước ngoài. Do vậy, có đủ căn cứ để kết luận rằng, quan niệm về HHCC dưới góc độ lý thuyết ở nước ta hầu như nhất trí hoàn toàn với quan niệm của kinh tế học hiện đại của thế giới.

Dưới góc độ chính sách quan niệm về HHCC được phát triển xuất phát từ nhu cầu tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp chuyên cung ứng

HHCC đã và đang tồn tại trong nền kinh tế từ thời bao cấp. Do vậy, bản thân tên gọi cũng sử dụng thuật ngữ có tính kế thừa. Các dịch vụ quốc phòng, an ninh và các hàng hóa chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh mặc dù không được xếp vào nhóm HHCC nhưng các doanh nghiệp cung ứng chúng được coi là DNCI và có quy chế quản lý giống như đối với HHCC. Như vậy có thể thấy, dưới góc độ chính sách, quan niệm về HHCC ở Việt Nam hiện nay vừa rộng hơn vừa hẹp hơn so với quan niệm lý thuyết về HHCC trên thế giới. Quan niệm rộng hơn thể hiện ở chỗ, nó hàm chứa một loạt hàng hóa cá nhân khuyến dụng.

Trong điều kiện nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, nhóm hàng hóa này chưa thể tổ chức sản xuất và cung ứng hoàn toàn theo phương thức thị trường, việc xếp chúng vào danh mục HHCC là phù hợp. Về bản chất, nhóm hàng hóa này là hàng hóa cá nhân được cung cấp bởi phương thức công cộng, được gọi là nhiệm vụ công ích hoặc hàng hóa cá nhân khuyến dụng. Tuy nhiên, trong thời gian tới sẽ thu hẹp dần danh mục này lại do các thành phần kinh tế khác có khả năng đảm nhận như: xã hội hóa một phần thu gom, vận chuyển rác thải; đấu thầu một số tuyến xe buýt nội đô, cung cấp nước sạch… nhằm giảm mức đầu tư của nhà nước. Quan niệm hẹp hơn thể hiện ở chỗ, có một loạt hàng hóa và dịch vụ như giáo dục, dịch vụ y tế, bảo đảm không khí sạch, cảnh quan kiến trúc, dịch vụ hành chính công… do ở Việt Nam chưa được coi là hàng hóa nên không xếp vào danh mục HHCC. Điều này cũng có thể là phù hợp với giai đoạn cải cách hiện nay tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, danh mục các HHCC cần được bổ sung, hoàn thiện.

Trước thời kỳ đổi mới, trong điều kiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thị trường không được thừa nhận, do đó khái niệm hàng hóa nói chung trên thực tế cũng không được thừa nhận. Mọi sản phẩm, trong đó có HHCC đều do Nhà nước tổ chức sản xuất và nắm quyền phân phối theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thu đủ chi đủ. Trên thực tế, HHCC trong giai đoạn này đã tồn tại và giữ vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo mục tiêu của Nhà nước cũng như đáp ứng nhu cầu nhân dân. Sự khác biệt trong quan niệm về HHCC trong thời kỳ này biểu hiện trên 5 nội dung sau đây: Thứ nhất, trong cơ chế cũ, Nhà nước đảm nhiệm vai trò sản xuất cả HHCC và hàng hóa cá nhân nên không thể đặt vấn đề tại sao Nhà nước lại cung ứng HHCC. Những HHCC thuần túy như: hệ thống đê điều, biển báo giao thông, vệ sinh môi trường, nghiên cứu khoa học… thuộc vào loại dễ xác định căn cứ vào mục đích cung

cấp hàng hóa của Nhà nước. Những HHCC như: dịch vụ cấp giấy phép, giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khỏe, phát thanh và truyền hình… khó xác định về phạm vi bởi hàng hóa được bao cấp và phân phối theo nhóm dân cư. Một mặt HHCC được quan niệm khá hẹp do rất nhiều sản phẩm, dịch vụ chưa được thừa nhận là hàng hóa ví dụ như: vận tải hành khách, vệ sinh đô thị, cung ứng nước sạch. Trong khi các dịch vụ giáo dục, y tế, an ninh, thủy nông, chiếu sáng… được coi là nhiệm vụ của các cơ quan sự nghiệp chứ không phải là hàng hóa. Ngược lại có một số dịch vụ cá nhân nhưng do quan niệm của thời kỳ bao cấp phải do khu vực công cộng cung ứng theo phương thức cào bằng như ăn uống công cộng, cắt tóc, nhà ở… nên nhiều tài liệu cũng xếp vào nhóm HHCC. Thứ hai, do Nhà nước nắm giữ mọi hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng, nhà nước có nghĩa vụ sản xuất và cung cấp HHCC góp phần vào thực thi sự công bằng, đảm bảo quyền làm chủ của người lao động, đồng thời định hướng xu hướng phát triển nói chung của nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước. Như vậy, trong cơ chế cũ không có các chủ thể tư nhân cung cấp HHCC. Thứ ba, khía cạnh về đối tượng hưởng thụ HHCC không có sự khác biệt lớn vì trong hai cơ chế quản lý đối tượng đều là các thành viên trong xã hội. Sự khác nhau chủ yếu ở chỗ cung cấp hàng hóa trong giai đoạn trước đổi mới có đạt hiệu quả cao hay không. Có thể khẳng định rằng các HHCC trong giai đoạn trước đổi mới được cung ứng và tiêu dùng chưa đạt hiệu quả cao. Hiện tượng "người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra" tương đối phổ biến. Các thành viên trong xã hội tiêu dùng các HHCC không phải trực tiếp trả tiền nhưng gián tiếp thông qua thuế. Lợi dụng sơ hở quản lý dẫn đến tình trạng tiêu dùng lãng phí HHCC diễn ra ở nhiều nơi với cấp độ trầm trọng, làm cho rất nhiều người khác không được hưởng thụ chúng. Thứ tư, về quan hệ cung cầu HHCC, trong cơ chế quản lý cũ, đường cầu tiêu dùng HHCC luôn ở mức tối đa vì: thứ nhất, nhu cầu của người dân cả HHCC và hàng hóa cá nhân luôn lớn hơn cung thực tế; thứ hai, Nhà nước là chủ thể cung cấp và người tiêu dùng không phải trả tiền cho việc sử dụng. Do vậy, trên thị trường luôn có sự thiếu hụt và Nhà nước thường phải áp dụng chế độ tem phiếu hoặc các biện pháp hành chính khác để điều chỉnh quan hệ cung - cầu. Thứ năm, đánh giá hiệu quả cung cấp HHCC là công việc rất khó khăn, đặc biệt là trong cơ chế quản lý cũ. Tuy nhiên, thời kỳ trước 1975, một số HHCC cũng đã được cung cấp tương đối tốt, thỏa mãn một phần quan trọng các nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa này như: giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ... Thời kỳ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

khủng hoảng kinh tế vào thập kỷ 80 (thế kỷ XX), việc cung cấp HHCC trở nên bất cập, mức độ thiếu hụt ngày càng trầm trọng. Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với yêu cầu phát triển nhanh thì tình trạng lợi dụng thị trường HHCC để trục lợi cá nhân ngày càng phát triển. Việc đánh giá hiệu quả tuy đã có những tiêu chí định lượng như áp dụng các đơn giá định mức cho từng chuyên ngành cụ thể, lắp đặt đồng hồ đo đếm điện, nước; bãi bỏ chế độ dùng khoán theo đầu người…

Trên cơ sở tiêu chí phân định HHCC, xác định các mô hình tổ chức quản lý sản xuất và cung cấp HHCC nhằm tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt được hiệu quả xã hội cao đòi hỏi phải rất linh hoạt, xuất phát từ thực tế có nhiều cách tổ chức quản lý cụ thể. Nhà nước trực tiếp cung cấp thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các DNCI. Một số tổ chức nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước hay các tổ chức sự nghiệp của Nhà nước đảm nhiệm cung cấp các dịch vụ thuộc hạ tầng xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ. Một số được tổ chức theo mô hình các doanh nghiệp cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch thực hiện theo giá phí Nhà nước quy định, đây chính là các DNCI. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX) tháng 9/2001 cũng đã xác định rõ hơn quan niệm về loại hình DNCI là những doanh nghiệp chuyên sản xuất, cung ứng HHCC không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng rất cần thiết để bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đảm bảo các mục tiêu xã hội. Bên cạnh hình thức cung ứng HHCC trực tiếp thông qua các đơn vị hành chính, sự nghiệp của nhà nước, có một số HHCC Nhà nước không trực tiếp sản xuất, tùy theo khả năng và điều kiện cụ thể, khu vực kinh tế tư nhân cũng có thể tham gia dưới các hình thức cơ bản như: trợ cấp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các HHCC theo đúng yêu cầu của Nhà nước: giá cả, chất lượng, đối tượng phục vụ đồng thời đảm bảo được lợi ích của các chủ thể cung cấp. Thông qua đấu thầu ký hợp đồng với các chủ thể cung cấp, đây là hình thức Nhà nước mua lại các HHCC và giữ quyền kiểm soát thông qua hợp đồng. Chuyển một số lĩnh vực sang cho khu vực tư nhân cung cấp trên cơ sở hạn chế độc quyền, thông qua quá trình cổ phần hóa, bán, cho thuê DNNN. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức từ thiện, tham gia cung cấp các HHCC trên cơ sở không vì lợi nhuận.

Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Tp.HCM - 4

Doanh nghiệp công ích trước hết được hiểu là một bộ phận của doanh nghiệp nhà nước. Luật DNNN ban hành ngày 30 tháng 3 năm 1995 lần đầu tiên tại nước ta đã

đưa ra khái niệm về DNNN như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Đến tháng 11 năm 2003, luật DNNN được điều chỉnh như sau: "DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH".

Khái niệm doanh nghiệp công ích Tại Nghị định số: 56/CP ngày 2/10/1996 của Chính phủ, DNCI được quan niệm như sau: DNNN hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận. Đây là lần đầu tiên luật pháp Việt Nam thừa nhận loại hình DNNN hoạt động công ích làm cơ sở để xác định phạm vi và cơ chế quản lý các DNCI, là vấn đề rất mới đối với Việt Nam.

1.2.2. Một số đặc điểm của doanh nghiệp công ích

Trong cơ cấu hàng hóa, có một bộ phận hàng hóa cá nhân với tính chất đặc thù của loại hàng hóa này là tính cạnh tranh và tính loại trừ. Một bộ phận hàng hóa khác không thể do thị trường cung cấp vì nhiều lý do hoặc nếu thị trường cung cấp thì cũng không đủ số lượng và không đáp ứng yêu cầu, hoặc thị trường không muốn cung cấp, đó là HHCC. J.E.Stiglitz (người Mỹ, từng được giải Nôbel về Kinh tế năm 2001) cho rằng, HHCC có hai đặc tính quan trọng là: "Thứ nhất, chúng không bắt cá nhân nào phải trả thêm tiền khi hưởng lợi HHCC hay chi phí cận biên bằng 0 khi tăng lên một đơn vị cá nhân sử dụng. Thứ hai, nói chung thật là khó hoặc không thể không cho các cá nhân hưởng lợi từ HHCC". Với đặc điểm trên, thị trường không cung cấp hoặc không thể cung cấp HHCC vì chi phí quá lớn, thu hồi vốn chậm hoặc khó thu hồi. Có những lĩnh vực, HHCC có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng nếu để thị trường đầu tư thì các doanh nghiệp tư nhân không thấy hết tầm quan trọng của hàng hóa mà trước hết là tính đến mục tiêu lợi nhuận. Nếu chỉ tính đến lợi nhuận sau khi bỏ vốn đầu tư sẽ không bảo đảm mục tiêu sử dụng HHCC của Nhà

nước. Và với đặc điểm chi phí bằng 0 khi tăng thêm một đơn vị người sử dụng thì Nhà nước cung cấp loại hàng hóa này tốt hơn tư nhân. Điểm tốt hơn ở đây không chỉ ở chỗ Nhà nước đóng vai trò trong việc phân phối HHCC mà vì nếu tư nhân đầu tư thì họ sẽ thu tiền tăng thêm khi tăng thêm một cá nhân sử dụng, như vậy người tiêu dùng sẽ không muốn sử dụng hàng hóa này dẫn tới tình trạng HHCC được sử dụng dưới mức trung bình.

Như phân tích về hàng hóa công cộng trên cho thấy sở dĩ có loại hình này là do một số HHCC tương tự như hàng hóa thông thường khác, quy trình cung cấp của một số HHCC tương tự như quy trình cung cấp các hàng hóa và dịch vụ thông thường. Nghĩa là đã có những quy định rõ về việc mỗi người phải làm, các đầu vào đầu ra đã có quan hệ xác định, từ đó hoàn toàn có thể tính được chi phí và mở ra khả năng hoàn thành nhiệm vụ với chi phí thấp nhất. Do vậy, nó phải được vận hành theo nguyên lý doanh nghiệp, hạch toán kinh doanh nhưng mang đặc thù về chi phí với một phần là nhà nước chi trả, một phần do xã hội chấp nhận chia sẻ. Bởi vậy các DNCI cung cấp các HHCC thường hoạt động trong các lĩnh vực thuộc hạ tầng kỹ thuật, chiếu sáng công cộng, vệ sinh môi trường, sửa chữa đường sá, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cây xanh đô thị, hệ thống cầu đường...

Nhóm những hàng hóa cá nhân có tính công cộng là những hàng hóa và dịch vụ này thường ít có tính kình địch nhưng có thể loại trừ và việc loại trừ là cần thiết do chi phí gia tăng khi thêm một người tiêu dùng là lớn như: điện, nước, viễn thông, khí đốt. Đặc điểm của các ngành này là thường có lợi thế nhờ quy mô do đó dễ dẫn tới độc quyền, loại bỏ cạnh tranh gây tổn hại đến người tiêu dùng; mặt khác đây là những ngành có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Với loại hàng hóa này, Nhà nước thường nắm hoặc kiểm soát chặt chẽ việc cung cấp và nhằm hướng tới sự công bằng chỉ có thể đảm bảo cung cấp một lượng nhỏ như nhau cho tất cả mọi người (thông qua các dịch vụ giá rẻ) còn nếu muốn sử dụng nhiều hơn phải trả tiền nhưng nếu sử dụng ít hơn thì không được hoàn lại hay khấu trừ phần chưa sử dụng; hoặc áp dụng giá phí khác nhau đối với những vùng có mức sống chênh lệch. Với mục tiêu xã hội đảm bảo tính công bằng trong phân phối và hưởng thụ hàng hóa thuộc lĩnh vực đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, việc thành lập các DNCI nhằm cung cấp một phần các hàng hóa dịch vụ nói trên là phù hợp. Có nhiều địa bàn khu vực tư nhân không muốn cung cấp do sức mua quá thấp hoặc

chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, ví dụ như cung cấp các hàng hóa cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Để đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng và thiết lập công bằng xã hội, DNCI là tổ chức thích hợp để đảm đương nhiệm vụ này. Một số loại hàng hóa khác Nhà nước không muốn khu vực tư nhân tham gia cung cấp do chúng có tính hai mặt: lợi và hại, trong đó cái hại đặc biệt nguy hiểm: sản xuất các chất độc, chất cháy, vũ khí, các loại thuốc bào chế từ các loại ma túy. Việc Nhà nước nắm lấy độc quyền cung cấp là cần thiết nhưng không thể kinh doanh vì lợi nhuận, do vậy hình thức DNCI sẽ là sự lựa chọn hợp lý.

Ngoài ra, DNCI còn đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: cung cấp các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đặc biệt là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật: giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch, thoát nước, chiếu sáng công cộng, bưu chính viễn thông; kết cấu hạ tầng xã hội: giáo dục, y tế, công viên - cây xanh - vườn thú, môi trường đô thị, nghiên cứu khoa học cơ bản và trong lĩnh vực đảm bảo quốc phòng an ninh. DNCI góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của thị trường, … những ngành, lĩnh vực có độ rủi ro cao, đòi hỏi đầu tư lớn nhưng lại chậm thu hồi vốn, những ngành có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận trên vốn thấp. Những ngành này mặc dù rất cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, hoặc không đủ khả năng, chưa đủ điều kiện triển khai thì DNCI là bộ phận đảm đương nhiệm vụ này tạo nên sự cân bằng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho tái sản xuất được trôi chảy, đảm bảo sự hài hòa trong sự phát triển giữa các lĩnh vực sản xuất, giữa các vùng miền trong xã hội.

Như vậy DNCI về cơ bản sẽ có các đặc điểm sau:

- Tham gia vào thị phần tư nhân không muốn đầu tư hoặc việc đầu tư đòi hỏi chi phí quá lớn và lợi ích là dài hạn

- Góp phần khắc phục những khiếm khuyết của thị trường nhằm đảm bảo công bằng trong phân phối và hưởng thụ các nguồn lực trong xã hội

- Thực hiện một số chức năng đặc thù của nhà nước nhằm đảm bảo an toàn xã hội, an ninh quốc phòng.

- Hạn chế khả năng độc quyền của khu vực tư nhân đối với một số lĩnh vực then chốt trong phát triển kinh tế, xã hội.

1.2.3. Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ

1.2.3.1. Khái niệm công nghệ.

Công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành và phát triển xã hội loài người. Từ “công nghệ” có gốc Hy Lạp, nó được ghép bởi tekhne có nghĩa là kỹ năng và logos có nghĩa là sự nghiên cứu. Thuật ngữ technology trong tiếng Anh có nghĩa là khoa học về kỹ thuật hay sự nghiên cứu có hệ thống về kỹ thuật. Trong tiếng Việt, công nghệ thường được hiểu là quá trình tiến hành một công đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc, do đó công nghệ thường mang nghĩa tính từ của thuật ngữ như: quy trình công nghệ, thiết bị công nghệ, dây chuyền công nghệ...

Có quan niệm cho rằng: “công nghệ là tập hợp các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình dáng nguyên, vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh”, theo đó, công nghệ chỉ liên quan đến sản xuất vật chất.

Mặc dù đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, nhưng việc đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về công nghệ lại chưa thống nhất. Thuật ngữ "công nghệ" được hình thành từ khá lâu và được sử dụng để chỉ các hoạt động ứng dụng những kiến thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong hoạt động của con người. Khái niệm CN này dần được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng việc đưa ra định nghĩa CN lại chưa có sự thống nhất, nguyên nhân là do tính đa dạng của CN, sự đa dạng trong quan điểm của các nhà nghiên cứu và sự phát triển của KH&CN .... Đã có nhiều tổ chức quốc tế về KH&CN cố gắng đưa ra một định nghĩa CN có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia, trong từng khu vực và phạm vi toàn cầu.

Theo quan niệm cổ điển nhất, CN là một trật tự nghiêm ngặt các thao tác của quá trình chế biến vật chất và/hoặc thông tin.

Theo tác giả F.R.Root, "công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng được vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới". Trong định nghĩa này, bản chất của CN là dạng kiến thức và mục tiêu sử dụng CN là áp dụng vào sản xuất và tạo ra các sản phẩm mới.

Theo tác giả R.Jones, năm 1970 cho rằng "công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực được chuyển thành hàng hóa".

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 25/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí