yêu cầu xã hội là những điều bắt buộc quy định trong luật pháp, trong các chế định. Căn cứ vào các yêu cầu chất lượng đã được xác định, các nhà thiết kế sẽ xây dựng nên các yêu cầu kỹ thuật/quy định kỹ thuật cho sản phẩm bao gồm cả các bộ phận, chi tiết của sản phẩm sao cho sản phẩm cuối cùng sẽ có tính năng thỏa mãn các yêu cầu chất lượng đã định. Bởi vậy các yêu cầu chất lượng còn gọi là các yêu cầu tính năng/quy định tính năng. Các tiêu chuẩn chất lượng là công cụ thiết thực cho hoạt động đo lường và quản lý chất lượng trong thực tiễn, là cơ sở kiểm định hiệu quả và hiệu lực của quản lý.
Hoạt động quản lý trong lĩnh vực chất lượng được hiểu là quản lý chất lượng. Theo tiêu chuẩn ISO 9000:2000, TCVN ISO 9000:2000 quản lý chất lượng là tổng thể: “Các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng” và thực hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng. Các phương thức của quản lý chất lượng bao gồm:
- Kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm, định cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính. Kiểm tra nhằm sàng lọc sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không.
- Kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng bao gồm kiểm sát át con người, kiểm soát phương pháp và quá trình, kiểm soát đầu vào, kiểm soát thiết bị, kiểm soát môi trường. Kiểm soát theo chu trình Derming là hoạt động kiểm soát vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng.
- Đảm bảo chất lượng là mọi hành động có kế hoạch và có hệ thống nhằm đem lại lòng tin thỏa đáng rằng sản phẩm thỏa mãn các yêu cầu đã định đối với chất lượng. Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn ISO 9000 để giúp cho các tổ chức có được một mô hình chung về đảm bảo chất lượng.
- Kiểm soát chất lượng toàn diện theo định nghĩa của Ủy ban Giải thưởng Derming của Nhật là “Hoạt động thiết kế, sản xuất và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng theo yêu cầu của khách hàng một cách kinh tế, dựa trên nguyên tắc định hướng vào khách hàng và xem xét đầy đủ đến phúc lợi xã hội. Nó đạt được mục tiêu của công ty thông qua việc lặp lại một cách hiệu quả chu trình PDCA, bao gồm
lập kế hoạch - thực hiện - kiểm tra - hành động điều chỉnh. Điều đó được thực hiện bằng cách làm cho toàn thể nhân viên thông hiểu và áp dụng tư tưởng và phương pháp thống kê đối với mọi hoạt động nhằm đảm bảo chất lượng. Các hoạt động này là một chuỗi công việc, bao gồm khảo sát, nghiên cứu, phát triển, thiết kế, thu mua, sản xuất, kiểm tra và marketing cùng với tất cả các hoạt động khác cả bên trong và bên ngoài công ty.”
- Quản lý chất lượng toàn diện: Là một phương pháp quản lý của một tổ chức, định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích của mọi thành viên của công ty đó và của xã hội.
Căn cứ vào những phân tích về chất lượng, quản lý chất lượng nói chung của các tổ chức, có thể hiểu Quản lý sản phẩm đầu ra là tổng thể các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng sản phẩm đầu ra. Cụ thể đây là phương thức quản lý đảm bảo cho người cung cấp sản phẩm đầu ra có quyền tự chủ trong quản lý để quyết định những đầu vào cần thiết để sản xuất đầu ra cũng như đảm bảo được chất lượng sản phẩm đầu ra.
Quy trình quản lý sản phẩm đầu ra theo quan điểm của tác giả cần được được thực hiện theo mô hình2 sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Tp.HCM - 1
- Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Tp.HCM - 2
- Một Số Đặc Điểm Của Doanh Nghiệp Công Ích
- Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công ích tại Tp.HCM - 5
- Nhận Diện Và Đánh Giá Thực Trạng Chính Sách Quản Lý Sản Phẩm, Dịch Vụ Công Ích Với Hoạt Động Đổi Mới Công Nghệ Tại Các Doanh Nghiệp Công
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
2 Nguyễn Hồng Hà, Đổi mới phương thức cấp phát ngân sách gắn với kết quả đầu ra, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/doi-moi-phuong-thuc-cap-phat-ngan-sach-gan- voi-ket-qua-dau-ra-35049.htm, 4/11/2013
Ghi chú :
1.Các tính toán kinh tế xác định dự toán chi tiêu.
2.So sánh hiệu quả: đạt được 1 lượng sản phẩm đầu ra như thế thì cần sử dụng bao nhiêu đầu vào.
3. Mức độ thành công: sản phẩm đầu ra đó tác động tích cực hay tiêu cực đối với nền kinh tế xã hội.
4. Hiệu suất sử dụng nguồn lực: đánh giá tác động của việc sử dụng các yếu tố đầu vào đối với nền kinh tế xã hội.
Sở dĩ mô hình này được lựa chọn cho chu trình quản lý sản phẩm đầu ra bởi khả năng thay đổi việc phân bổ các nguồn lực mang nặng tính chủ quan, áp đặt từ các cấp có quyền lực phân bổ, cách thức phân bổ mang tính cào bằng, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp, chất lượng hàng hóa cung cấp cho xã hội kém, người quản lý thiếu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động. Thực hiện quản lý sản phẩm đầu ra theo mô hình này giúp gắn kết giữa mục tiêu chất lượng sản phẩm đầu ra với toàn bộ quá trình vận hành, xây dựng quy trình quản lý, tức là trọng tâm vào việc quản lý đối với hiệu quả sử dụng nguồn lực và mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội của các sản phẩm đầu ra.
1.1.2. Khái niệm chính sách
Chính vì vậy, so với khái niệm pháp luật, chính sách được hiểu rộng hơn nhiều. Nếu xét nội hàm của khái niệm này trong mối quan hệ với chính trị và pháp quyền thì khái niệm chính sách được tìm hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
- Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà người ta định ra chính sách.
- Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được luật pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật ngoài chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách.
Theo quan điểm này chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy quyền lực công – nhà nước. Từ đây, sự khác biệt giữa chính sách và pháp luật được thể hiện như sau:
- Nếu chính sách là những tư tưởng, định hướng, những mong muốn chính trị được thể hiện trong các nghị quyết, các văn kiện của Đảng thì pháp luật được thể hiện bằng các quy tắc xử sự mang tính pháp lý, được ban hành bởi Nhà nước theo những trình tự và thủ tục nghiêm ngặt (hình thức, thẩm quyền, quy trình soạn thảo và ban hành);
- Nếu chính sách (khi chưa được luật pháp hóa) chỉ là những cái đích mà người ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng buộc chung hay tính bắt buộc phải thực hiện, thì pháp luật lại là những chuẩn mực có giá trị pháp lý bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập thì chính sách được hiều là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách mà thôi.
Hay chính sách xét từ góc độ nhà nước là tổng thể những nguyên tắc, biện pháp của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung trong đời sống kinh tế - xã hội nhằm đạt mục tiêu đề ra. Các cách tiếp cận chính sách như trên có phần phiến diện khi đồng nhất giữa chính sách với quan điểm của Đảng phái chính trị, hay của một bộ phận giai tầng nắm quyền lực nhà nước.
Thuật ngữ "chính sách" được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên để hiểu đúng thuật ngữ này cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo nghĩa giản đơn, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Theo Từ điển tiếng Việt “chính sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…”. Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của Chính phủ, chính sách của chính
quyền địa phương, chính sách của một bộ, chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, chính sách của một DN …
Các tổ chức, các doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vị một tổ chức, doanh nghiệp , hiệp hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những "chính sách tư", tuy trên thực tế khái niệm "chính sách tư" hầu như không được sử dụng. Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công.
Nghiên cứu này đi theo quan điểm của Vũ Cao Đàm về khái niệm chính sách có tính bao quát như sau: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.
Theo khái niệm này chính sách không bị giới hạn bởi công hay tư, bởi chủ thể ban hành chính sách có quyền lực chính trị hay không có quyền lực chính trị, điều cốt yếu mà chính sách hướng đến đó là tác động vào động cơ hoạt động của con người thông qua một tập hợp các thiết chế để tạo ra một sự phân biệt đối xử giữa các nhóm người trong xã hội.
1.1.3. Khái niệm chính sách quản lý sản phẩm đầu ra
Từ phân tích khái niệm quản lý sản phẩm đầu ra và khái niệm chính sách nói chung, theo quan điểm của tác giả Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra là tập hợp các biện pháp được thể chế hóa do chủ thể quan lý đưa ra trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện mục tiêu đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu ra của tổ chức. Quản lý sản phẩm đầu ra là một nỗ lực nhằm kiểm soát hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực trong tương quan với khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội, do đó chính sách quản lý sản phẩm đầu ra sẽ tập trung vào việc đảm bảo cho các thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có được vai trò, vị trí hợp lý và quyền tự chủ trong việc quyết định các yếu tố đầu vào và quy trình cần có cho hoạt động của tổ chức.
Chính sách quản lý sản phẩm đầu ra dựa trên yếu tố cốt lõi là chiến lược Kaizen. Theo ý kiến của các chuyên gia Nhật, chiến lược Kaizen là phương pháp quan trọng trong quản lý của Nhật Bản, là chìa khoá của sự thành công trong cạnh tranh của Nhật. Kaizen có nghĩa là cải tiến liên tục, "không ngày nào không có một cải tiến nào đó được thực hiện trong công ty", huy động, khuyến khích và thừa nhận nỗ lực của con người trong quá trình làm việc để thực hiện cải tiến. Chiến lược Kaizen đòi hỏi các nhà quản lý phải tìm cách thoả mãn khách hàng, phục vụ các nhu cầu của khách hàng. Với quan niệm rằng cải tiến thường là một quá trình diễn ra dần dần và cần có thời gian mới có hiệu quả. Kaizen cũng quan tâm đến đổi mới công nghệ là cần thiết, nhưng sản phẩm có được từ công nghệ mới lúc đầu thường đắt và chất lượng chưa đảm bảo. Bởi vậy họ cho rằng tiếp sau công nghệ mới là phải hướng nỗ lực vào việc giảm chi phí, cải tiến chất lượng và cách thức phát triển chủ yếu của công nghệ ngày nay đang chuyển từ nhảy vọt sang từng bước nhỏ. Sức mạnh công nghệ của Nhật là sự liên kết chặt chẽ giữa triển khai, thiết kế và sản xuất. Chính yếu tố này đã khiến việc triển khai sản xuất hàng loạt được nhanh chóng hơn ở phương Tây và ít gặp vấp váp hơn. Kaizen cũng không phủ nhận đổi mới, nó không thay thế hay loại trừ đổi mới mà bổ sung cho nhau. Khi Kaizen đã gần cạn, không phát huy mạnh mẽ thì cần có đổi mới, và ngay sau khi có đổi mới cần thực hiện Kaizen. Kaizen và đổi mới là hai thành phần không tách rời nhau trong tiến trình phát triển.
Chính chiến lược Kaizen trong chính sách quản lý sản phẩm đầu ra sẽ giải quyết được mối quan hệ tất yếu giữa quản lý sản phẩm đầu ra và đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp. Nói cách khác chất lượng được quản lý tốt là tiền đề cho việc đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp xét về mặt dài hạn.
1.2. Khái niệm doanh nghiệp công ích và đổi mới công nghệ
1.2.1. Khái niệm hàng hóa công cộng, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp công ích
Những người thuộc trường phái Trọng thương thế kỷ 15 - 17 cho rằng để có nhiều tiền, nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ, làm "bà đỡ" cho quá trình làm tăng của cải, tăng giá trị của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh tế học cổ điển Anh thì muốn phủ định vai trò kinh tế của Nhà nước. Mặc dù vậy, A. Smith, nhà kinh tế học cổ điển nổi tiếng thời bấy giờ - vẫn phải thừa nhận rằng Nhà nước không thể không có vai trò trong việc duy trì các công trình công cộng (đường sá, cầu cống, sông đào, bến
cảng) và những thể chế mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Engel khi nói về sự tác động của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế đã khẳng định có ba loại: Một là, nếu những tác động phù hợp, đúng quy luật, cùng hướng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, làm trái quy luật, áp đặt sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ba là, tác động của nhà nước tốt hướng này, cản trở hướng khác sẽ gây những cản trở trong quá trình phát triển kinh tế.
Can thiệp vào đời sống kinh tế có nghĩa là nhà nước dùng quyền lực áp đặt những quy định dưới hình thức pháp luật nhằm hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế cho phù hợp với những mục tiêu Nhà nước đã lựa chọn. Để thực hiện vai trò này, nhà nước có thể ban hành và thực thi hệ thống luật pháp kinh tế can thiệp vào phân phối thu nhập trong xã hội, các chính sách kinh tế, chính sách an ninh, chính sách phúc lợi xã hội hoặc trực tiếp tổ chức xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Khẳng định vai trò của Nhà nước trong tổ chức xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng, C. Mác cho rằng, đó không chỉ là sự thể hiện chức năng của Nhà nước, mà trong những trường hợp riêng biệt, nó còn là đòi hỏi phải có Nhà nước. Đó là trường hợp các Nhà nước ở phương Đông: "Dù cho những chính quyền chuyên chế đã xuất hiện và suy vong ở Ba Tư và Ấn Độ có nhiều đến đâu chăng nữa, thì mỗi một chính quyền đó cũng biết rất rõ rằng nó trước hết là người tổng phụ trách việc
tưới nước cho các thung lũng mà nếu không có thì ở đó không thể có một nền nông nghiệp nào hết"3. Rõ ràng ngay cả những quốc gia vốn coi trọng vai trò của kinh tế tư nhân, những quốc gia có nền KTTT phát triển từ rất sớm nhưng đều có một quan điểm chung về vai trò của nhà nước trong việc đảm nhận trách nhiệm cung ứng các sản phẩm HHCC trên thị trường.
Cho đến nay thuật ngữ HHCC đã được sử dụng và trở thành khái niệm tương đối thông dụng trong nghiên cứu khoa học và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước tuy nhiên, đến nay vấn đề này vẫn nhiều điểm chưa thống nhất cả về lý thuyết cũng như thực tế. Có hai góc độ tiếp cận về HHCC ở Việt Nam: góc độ thuần túy lý thuyết và góc độ chính sách. Hai góc độ tiếp cận này phát triển song hành từ đầu thập kỷ 90 và ngày càng hoàn thiện cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới tư duy kinh tế và sự xâm nhập, phát triển các quan niệm KTTT. Hai góc độ tiếp cận này
3 Đỗ Thị Hải Hà (2003), "Quản lý nhà nước với vấn đề dịch vụ công", Kinh tế và dự báo, 9(365), tr. 22-23.
không mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Về tiếp cận lý thuyết có nhiều quan niệm khác nhau về HHCC. Một số ý kiến cho rằng HHCC là loại hàng hóa được cung cấp mà người tiêu dùng nó không phải trực tiếp trả tiền. Một số ý kiến khác lại cho rằng dịch vụ công là mọi hoạt động thực thi các chức năng của Nhà nước, bao gồm cả chức năng cai trị của bộ máy Nhà nước đối với xã hội và chức năng cung cấp các hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của công dân còn HHCC chỉ là một bộ phận của dịch vụ công, HHCC xét theo nghĩa này chỉ gồm những hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu tối cần thiết của cộng đồng, do các tổ chức của Nhà nước hoặc các chủ thể được Nhà nước ủy quyền và tài trợ đứng ra cung cấp, không bao gồm các hoạt động mang chức năng cai trị. Mặc dù vậy, trước xu hướng hiện nay là thu hẹp dần phạm vi của các loại hàng hóa và dịch vụ không phải trực tiếp trả tiền, quan niệm về HHCC như cách thứ nhất không phản ánh được đầy đủ tính sâu sắc của khái niệm HHCC. Thuật ngữ HHCC theo cách quan niệm thứ hai và được xem xét trên khía cạnh những thuộc tính cơ bản của nó: tính không kình địch và tính không loại trừ. Đây là những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cả cộng đồng.
HHCC được chia làm các loại: Nhóm HHCC thuần túy: những hàng hóa và dịch vụ không thể chia nhỏ và không thể quy định mức độ sử dụng đối với các đối tượng khác nhau. Nói cách khác đó là các hàng hóa và dịch vụ mà nếu thêm một người sử dụng thì không ảnh hưởng đến việc người khác sử dụng (tính không kình địch) và khi chúng được sản xuất ra không thể ngăn cấm ai đó muốn tiêu dùng (tính không loại trừ). Các HHCC thuần túy điển hình: hệ thống đê điều phòng chống lụt bão, hệ thống các biển báo đường sông, đường biển, đường bộ, hệ thống vệ sinh môi trường và cảnh quan đô thị.... Loại HHCC này rất khó có thể tính toán các chi phí để sản xuất ra đồng thời cũng không thể phân bổ lượng tiêu thụ cụ thể cho mỗi thành viên của xã hội (hội việc một ai đó sẽ hưởng bao nhiêu hàng hóa chiếu sáng công cộng), từ đó cũng không thể định giá cho người sử dụng (ai sử dụng nhiều thì phải trả nhiều tiền). Nhóm các HHCC không thuần túy: nhóm này mang những thuộc tính gần giống HHCC thuần túy nhưng ở mức độ khác. Một số loại không thể loại trừ nhưng việc một người sử dụng có thể ảnh hưởng đến người khác. Như trong giáo dục bậc tiểu học và chăm sóc sức khỏe có thể loại trừ nhưng để tạo ra sự công bằng tối thiểu cho các công dân Nhà nước không muốn loại trừ.