3.3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRÊN TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ THỜI GIAN TỚI
Trước bối cảnh tình hình trong và ngoài nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, những xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế vừa đem lại cho công tác đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng những thời cơ to lớn hơn, nhưng cũng tạo ra những thách thức, khó khăn không nhỏ. Trên cơ sở mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực, thúc đẩy quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế, hoạt động đối ngoại thời gian tới vừa phải đảm bảo giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động xâm hại chủ quyền, an ninh đất nước, góp phần nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam, vừa phải hướng mạnh vào phục vụ trực tiếp các hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, công tác đối ngoại còn phải tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của nhân loại nhằm giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Về cơ hội:
Một là, thế giới đang trong xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đang phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng tham gia vào tiến trình hội nhập quốc tế một cách thuận lợi. Cùng với nó là sự mở rộng thị trường cho việc xuất khẩu hàng hóa, giao lưu buôn bán. Ngoài ra, toàn cầu hóa và khu vực hóa còn giúp cho các nước chậm phát triển có nhiều cơ hội hơn trong việc khai thác và ứng dụng sự tiến bộ của khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế trong nước.
Hai là, tình hình khu vực Đông Nam Á ngày càng thuận lợi cho việc ổn định và phát triển kinh tế. Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (năm 1995), ASEAN đã không ngừng phát triển. Với sự góp mặt của 10 quốc gia Đông Nam Á, ASEAN đã và đang là một trong những tổ chức hoạt động tích cực và có hiệu quả trên thế giới, tạo môi trường hòa bình và ổn định tại khu
vực, giúp cho các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam, có điều kiện xây dựng và phát triển đất nước.
Ba là, hình ảnh Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế đã có nhiều thay đổi. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Việc Việt Nam trở thành thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế, đặc biệt là việc trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã mang lại uy tín cho Việt Nam trước các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều Hội nghị quốc tế, qua đó khẳng định sự tin tưởng của thế giới đối với Việt Nam.
Về khó khăn, thách thức:
Mặc dù Việt Nam đã tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp và cả nền kinh tế của nước ta còn yếu do chúng ta tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế trên nền tảng của một nền kinh tế có trình độ phát triển thấp, cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch. Đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ làm công tác đối ngoại nói riêng còn yếu và thiếu.
Cơ chế thị trường của Việt Nam chưa thật hoàn thiện, nhiều thị trường quan trọng, nhất là thị trường vốn, lao động, bất động sản, khoa học- công nghệ còn chưa phát triển. Những yếu kém về quản lý và điều hành của các cơ quan nhà nước cũng tạo ra những cản trở đối với hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống luật pháp của nước ta vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, nhất là các lĩnh vực kinh tế, thương mại; nhiều quy định pháp lý lạc hậu so với thực tế, cản trở việc hoạch định các lộ trình hội nhập, cản trở khả năng và hoạt động hội nhập, đồng thời không bảo vệ được lợi ích của ta khi cần thiết.
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 9
- Tăng Cường Giao Lưu Văn Hóa, Giáo Dục Và Các Hoạt Động Khác
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 11
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 13
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 14
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 15
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
Bên cạnh những khó khăn do chủ quan đem lại, những khó khăn do bên ngoài tác động cũng không ít, đó là:
Hệ thống thương mại đa phương vốn do các nước phát triển khởi xướng, xây dựng và chi phối, do vậy, chứa đựng nhiều quy định bất bình đẳng và bất lợi
cho các nước có trình độ phát triển thấp, tham gia sau, trong đó có Việt Nam. Do tham gia sau, chúng ta cần phải thoả mãn những yêu cầu của các quốc gia tham gia trước, nhưng quy định mang tính linh hoạt ưu tiên đối với các nước đang phát triển cũng ngày càng hạn chế và khó thương lượng.
Những rào cản thương mại và biện pháp bảo hộ của các nước tư bản ngày càng phát triển và tinh vi hơn, gây thiệt hại và khó khăn cho các nước đang phát triển.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến khó lường. Các mâu thuẫn cơ bản vẫn chưa được giải quyết triệt để, chủ yếu là mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, các dân tộc. Kinh tế thế giới tiếp tục có đà tăng trưởng nhưng không thể chủ quan bởi những tác động tiêu cực từ diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và nhu cầu ngày càng lớn của thị trường năng lượng trên thế giới. Khu vực Đông Nam Á có nhiều cơ hội phát triển, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi cho sự ổn định tại khu vực, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Sức ép từ bên ngoài đối với nước ta về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo sẽ ngày càng lớn. Sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước sẽ ngày càng quyết liệt. Các hoạt động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc sẽ vẫn tiếp diễn với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Các hành động can thiệp vào công việc nội bộ của ta sẽ ngày càng công khai và nhiều hơn. Thiên tai và dịch bệnh nguy hiểm sẽ ngày càng thất thường và khó kiểm soát.
*
* *
Với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tăng cường hội nhập quốc tế trong thời gian tới. Tuy nhiên, chúng ta cần phải có một lộ trình thích hợp để việc hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao, vẫn giữ được chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
quốc gia.
Việt Nam tiếp tục củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng có chung đường biên giới và các nước trong khu vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế
– chính trị trên thế giới, đồng thời tìm ra hướng đi để hợp tác, mở rộng quan hệ với các nước ở khu vực khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù còn có nhiều khó khăn nhưng Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia một cách tích cực vào các hoạt động của các thể chế kinh tế trên thế giới, đặc biệt là WTO. Việt Nam cần tiếp tục có những sự điều chỉnh, bổ sung, ban hành Luật, đề ra những chính sách và chủ trương cụ thể phù hợp với các điều kiện mà các tổ chức quốc tế đặt ra trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ.
Thông qua các diễn đàn song phương và đa phương, Việt Nam tiếp tục chứng tỏ với thế giới về những tiềm năng vốn có, Việt Nam vẫn sẽ là một địa chỉ hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Việt Nam sẽ tham gia một cách tích cực và có hiệu quả trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Với vai trò là Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, Việt Nam cần có những đóng góp có hiệu quả với tinh thần trách nhiệm cao vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới của Liên hợp quốc.
Để tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam được thành công, mọi chủ trương, chính sách, biện pháp cần phải được đề ra và thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả. Hội nhập quốc tế phải gắn liền và nhất quán với chính sách chung về đối ngoại, phối hợp đồng bộ với các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh quốc phòng, chính trị và văn hóa - xã hội.
KẾT LUẬN
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1995 đến nay là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thành công việc triển khai chính sách đối ngoại đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh với phương châm thêm bạn bớt thù “ làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Trong một thế giới mà xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng phát triển thì việc Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách hội nhập quốc tế đặc biệt là chủ trương về hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và phù hợp với tình hình thế giới.
Trong quá trình triển khai chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn 1995 đến nay vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn, thách thức. Tuy vậy, vấn đề cơ bản là chúng ta đã hội nhập một cách có hiệu quả và đạt được những thành tựu to lớn nhằm góp phần thực hiện thành công mục tiêu đưa Việt Nam nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Ngày nay, trong một thế giới phát triển mạnh mẽ, để chính sách hội nhập quốc tế được triển khai thành công thì việc nhận thức, đánh giá một cách đúng đắn tình hình và năng lực của nền kinh tế là rất quan trọng. Bên cạnh đó, nắm bắt được thời cơ, điều kiện thuận lợi cũng như dự báo được những thách thức, khó khăn do điều kiện khách quan và chủ quan đem lại cũng là một yếu tố quyết định.
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới được Đảng và Nhà nước ta hoạch định và triển khai phù hợp với từng thời kỳ nhất định. Trong hơn một thập kỷ qua (1995-2007), chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam tiếp tục phát huy những hiệu quả mà chúng ta đã đạt được trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986.
Hội nhập quốc tế trong thời đại ngày nay còn là sự giao lưu giữa các nước trên mọi lĩnh vực. Sự giao lưu về văn hóa đã làm cho các quốc gia gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Với truyền thống lịch sử lâu đời, đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh đã thu hút ngày càng nhiều khách quốc tế đến tham quan và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, chính điều đó cũng nâng cao hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Hội nhập quốc tế còn mang lại nhiều cơ hội cho đất nước và con người Việt Nam được giao lưu, học hỏi với thế giới, được học tập và tiếp thu những kiến thức tiên tiến trên thế giới để áp dụng trong việc quản lý và điều hành các mặt hoạt động của nền kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam.
Với những đổi mới trong tư duy và thực tiễn hoạt động trong 20 năm đổi mới, chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn 1995 đến nay đã cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đường lối đó, vừa giữ vững các nguyên tắc, vừa linh hoạt sáng tạo trong từng trường hợp cụ thể, vừa kế thừa thành tựu quá khứ, vừa chủ động bổ sung phát triển, vừa nhấn mạnh mục tiêu, lợi ích dân tộc chân chính.
Như vậy, chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam phải được vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại với tình thần “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tinh cậy với các nước trong cộng đồng thế giới”, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế với tư thế “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo về lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Minh Anh (2007), Những yếu tố tác động đến tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 773, tháng 3/2007, tr.38- 42.
2. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Ngoại giao (2000), Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Mạnh Cầm, Trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới, Tạp chí Cộng sản, số 4 năm 1993, tr. 11 - 15.
7. Chu Văn Chúc (2004), Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại và hình thành đường lối đối ngoại đổi mới. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3 (58), tháng 9 năm 2004, tr. 3 - 11.
8. Lê Đăng Doanh, Về thuận lợi, thách thức và bước đi của Việt Nam khi gia nhập WTO, Tạp chí Cộng sản, số 775, tháng 5/2007, tr. 58 - 61.
9. Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường Đại học KHXH&NV- Khoa Quốc tế học (2005), Nghiên cứu quốc tế và sự hội nhập của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
10. Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường ĐH KHXH&NV – Viện Quốc tế Konrad- Adenauer- Stiftung (2003), Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
11. Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường ĐH KHXH&NV – Viện Quốc tế Konrad- Adenauer- Stiftung (2005), Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO, Nxb Thế giới, Hà Nội.