hiện ở sự chủ động đề xuất và chuẩn bị tích cực cho việc đưa ra một Tuyên bố về hợp tác kinh tế ASEM trong thời kỳ mới, đưa hợp tác ASEM, nhất là hợp tác kinh tế ASEM, trong đó có hợp tác kinh tế đi vào thực chất và hiệu quả hơn, phản ánh đầy đủ quan tâm và lợi ích của tất cả các thành viên.
Trong một số lĩnh vực khác, như hợp tác về văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường, quản lý, khoa học – kỹ thuật, chuyển giao công nghệ… sự tham gia thiết thực của Việt Nam vào các hoạt động phong phú và thiết thực này của ASEM đã góp phần tạo cầu nối gia tăng hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai châu lục.
Là một trong những thành viên sáng lập ASEM, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực trong ASEM, đặc biệt trong việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEM 5 vào các ngày 8 và 9/10/2004 tại Hà Nội với chủ đề “Tiến tới quan hệ đối tác Á - Âu sống động và thực chất hơn” và lần đầu tiên có toàn bộ 25 nước thành viên EU, toàn bộ 10 nước ASEAN, 3 nước Đông Bắc Á và Chủ tịch EC tham dự Hội nghị. ASEM 5 là một Hội nghị thượng đỉnh lịch sử đánh dấu sự mở rộng của diễn đàn hợp tác ASEM.
Bên lề của Hội nghị ASEM 5 đã diễn ra nhiều hoạt động đa dạng như: Hội nghị đối tác Nghị viện Á - Âu lần thứ ba; Diễn đàn Thanh niên Á - Âu lần thứ ba; Diễn đàn nhân dân Á - Âu; Diễn đàn Doanh nghiệp Á - Âu. Hội thảo về thành tựu và triển vọng hợp tác Á - Âu … Ngoài ra, Việt Nam còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, giao lưu giữa các nước ASEM như: Diễn đàn Nhiếp ảnh trẻ Á - Âu; triển lãm ảnh Á - Âu; Tuần lễ phim ASEM; Nhiều hoạt động thông tin tuyên truyền, xuất bản về ASEM và Hội nghị cấp cao ASEM 5.
Việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEM 5 tại Hà Nội là một sự kiện trọng đại có ý nghĩa chính trị lớn lao trong quan hệ đối tác và phát triển giữa hai châu lục Á - Âu và cũng là một trong những sự kiện đối ngoại quan trọng nhất trong năm 2004 của Việt Nam.
Tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
Tháng 11/1989, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Nhật Bản,
Malayxia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, Xingapo, Brunây, Inđônêxia, Niu Dilân, Canađa và Mỹ đã họp tại Canbêra (Ôxtrâylia) quyết định thành lập APEC với mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 11/1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan; tháng 11/1993, APEC kết nạp thêm Mêhicô, Papua Niu Ghinê.
Ngày 15/6/1995 Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Nước ta đã thực hiện tích cực các nghĩa vụ thành viên bao gồm việc xây dựng và công bố đúng hạn Kế hoạch hành động quốc gia (IAP), Kế hoạch hành động tập thể (CAP), đặc biệt là tham gia các chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuậtê ECOTECH. APEC coi ECOTECH là nội dung quan trọng nhằm hỗ trợ sự phát triển của các thành viên và thúc đẩy thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư khu vực. Thông qua chương trình ECOTECH, Việt Nam có thể tranh thủ được các nguồn thông tin, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tranh thủ được các nguồn vốn cùng những tiến bộ khoa học – công nghệ để phát triển sản xuất trong nước. Ngày 25/4/1997, Việt Nam xin tham gia với tư cách khách mời vào Nhóm công tác về Xúc tiến thương mại; Nhóm Công tác về Khoa học và Công nghệ công nghiệp; Nhóm Chuyên gia về Hợp tác Kỹ thuật nông nghiệp của APEC. Đây là những nhóm mà Việt Nam có khả năng đóng góp, đồng thời có thể đem lại những lợi ích cụ thể cho Việt Nam.
Ngày 14/11/1998, Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức của APEC cùng với Nga và Pêru. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của APEC trong điều kiện một nền kinh tế đang phát triển trong giai đoạn chuyển đổi. Việt Nam đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp thiết thực vào các chương trình hoạt động của APEC. Sau khi tham gia APEC, các cam kết và thực hiện IAP (chương trình hành động Quốc gia) của Việt Nam được đánh giá là nghiêm túc trong số các thành viên mới gia nhập - đã mở rộng cam kết trong tháng 11 trên
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Kết Quả Đạt Được Trong Việc Triển Khai Chính Sách Hội Nhập Quốc Tế Của Việt Nam Giai Đoạn Từ 1995 Đến Nay
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 8
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 9
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 11
- Cơ Hội Và Thách Thức Trên Tiến Trình Hội Nhập Quốc Tế Thời Gian Tới
- Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 13
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
tổng số 15 lĩnh vực hợp tác. Việt Nam cũng đã đề xuất nhiều sáng kiến của mình tại các Hội nghị và Diễn đàn khác nhau của APEC, đóng góp vào các hoạt động hợp tác chung.
Việc tham gia vào APEC đã có những tác động cả thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam.
Về thuận lợi: Tăng cường vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế; nắm bắt thông tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế giới để góp phần định hướng và điều chỉnh chính sách trong nước; tận dụng các chương trình hợp tác kinh tế – kỹ thuật; nâng cao khả năng quản lý, kinh doanh, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư thâm nhập thị trường; trao đổi kinh nghiệm, tạo thêm động lực thúc đẩy phát triển.
Về khó khăn: Khả năng hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung còn hạn chế; hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều bất cập; thiếu đội ngũ cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm…
Hiện nay, “APEC với khoảng 2,5 tỷ dân; 19.000 tỷ USD GDP mỗi năm và chiếm khoảng 47% thương mại toàn cầu” [2, tr.111]. Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP lớn hơn 500 tỷ USD, thì có 7 nền kinh tế là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Là thành viên có nền kinh tế trình độ độ phát triển còn thấp trong APEC, Việt Nam có nhiều cơ hội hợp tác với các nền kinh tế phát triển nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực tham gia vào giải quyết các vấn đề cấp thiết của khu vực và thế giới. APEC hội tụ hầu hết các đối tác thương mại chính của Việt Nam.
Trở thành thành viên chính thức của APEC, với một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia các chương trình hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và quá trình tự do hóa của APEC. Việt Nam có nhiều đối tác lớn trong APEC như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên bang Nga… “Thị trường APEC có tiềm năng rất lớn đối với Việt Nam,
chiếm khoảng 80% kim ngạch buôn bán, 75% vốn đầu tư nước ngoài và trên 50% nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)” [2, tr113]. Là một quốc gia thành viên mới của tổ chức APEC, nhưng Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao- Kinh tế APEC tổ chức tại Lốt Cabốt (Mêhicô) vào tháng 10/2002 Việt Nam đã đề xuất đăng cai Hội nghị cấp cap APEC năm 2006 và được tất cả các thành viên ủng hộ. Hội nghị APEC lần thứ 11 được tổ chức tại Băng Cốc, Việt Nam đã nêu lên 2 sáng kiến với chủ đề là “Tăng cường hợp tác nội khối” và “Quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ” được Hội nghị đánh giá cao. Việt Nam đã tham gia mạnh mẽ vào một số Kế hoạch hành động tập thể (CAPS) trong hai lĩnh vực hợp tác chủ yếu là Tiêu chuẩn và hợp tác (SCSC) và Thủ tục hải quan (SCCCP), dành ưu tiên cho Chương trình hợp tác kinh tế công nghiệp (ECOTECH).
Tại Hội nghị cấp cao ASEM lần thứ 12 tại Chilê, Việt Nam tham gia Hội nghị với sự tự tin, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và phát huy những kết quả mà chúng ta đã đạt được ở các diễn đàn quốc tế khác như ASEM, ASEAN nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới. Đoàn Việt Nam đã tích cực tham gia thảo luận và phát biểu ở tất cả các phiên họp, đóng góp những ý kiến thiết thực về tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư, chống khủng bố, an ninh và cải cách APEC. Nhiều ý kiến, quan điểm của Việt Nam được các nước khác chia sẻ và hoan nghênh. Việt Nam nhấn mạnh quyết tâm gia nhập WTO, đề nghị các thành viên ủng hộ sớm kết thúc đàm phán song phương với Việt Nam và đã đưa ra được nội dung vào Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng.
Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC. Có thể nói đây là một sự cố gắng lớn của Việt Nam bởi chúng ta đã có những chuẩn bị hết sức chu đáo trong việc đón tiếp các Nhà lãnh đạo của 25 nền kinh tế thành viên APEC, trong đó có các cường quốc trên thế giới như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Chủ đề của năm APEC Việt Nam 2006 là “Hướng tới một cộng đồng năng động vì sự phát triển bền vững và thình vượng”. Để cụ thể hóa chủ đề này, Việt
Nam đề xuất 4 tiểu chủ đề:
- Tăng cường thương mại và đầu tư thông quá thực hiện lộ trình Busan và thúc đẩy vòng đàm phán Doha
- Tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật để thu hẹp khoảng cách và phát triển bền vững.
- Thúc đẩy môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi.
- Thúc đẩy gắn kết trong cộng đồng APEC.
Chúng ta đã tổ chức nhiều sự kiện trong năm APEC Việt Nam 2006, trong đó có các sự kiện lớn bao gồm: Hội nghị các quan chức cấp cao APEC lần thứ nhất (SOM I) và các cuộc họp liên quan; Hội nghị An toàn thương mại khu vực APEC lần thứ tư (STAR IV); Hội nghị Bộ trưởng APEC về cúm gia cầm; Hội nghị các quan chức cao cấp APEC lần thứ hai (SOM II)… Tuần lễ cấp cao APEC được tổ chức tại Hà Nội với sự kiện nổi bật là Hội nghị không chính thức các Nhà lãnh đạo kinh tế APEC (từ ngày 18-19/11/2006) cùng với các Hội nghị quan chức cao cấp APEC- kỳ tổng kết (CSOM), Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao- Thương mại APEC, Hội nghị cấp cao các Chủ tịch/ Tổng Giám đốc của hơn 500 công ty hàng đầu tại khu vực APEC… ngoài ra, còn có các hội nghị, hội thảo của hơn 50 uỷ ban, tiểu ban, nhóm công tác của APEC, triển lãm hội chợ APEC 2006…
Việc Việt Nam tổ chức năm APEC 2006 có một ý nghĩa to lớn, đánh giá sự kiện này, Phó Thủ tướng Vũ Khoan – Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về APEC 2006 nói: “Năm APEC 2006 là sự kiện quốc tế lớn nhất từ trước đến nay tổ chức tại Việt Nam, mà trọng tâm là tuần lễ cấp cao APEC diễn ra từ ngày 12 đến 19/11/2006 tại Hà Nội. Đây là vinh dự, niềm tự hào vừa là sự đóng góp lớn nhất của Việt Nam vào tiến trình phát triển của APEC; thể hiện sinh động hình ảnh và vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam ở khu vực và thế giới. Có 3 điều hy vọng lớn; Thứ nhất, Việt Nam đóng góp vào việc phát triển của tiến trình APEC, làm cho APEC thực chất và có hiệu quả hơn. Thứ hai, thông qua APEC tạo dựng
tốt hơn nữa hình ảnh Việt Nam năng động, mến khách, có bản sắc văn hóa độc đáo. Thứ ba, thông qua APEC để thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các nền kinh tế thành viên vì các nền kinh tế này chiếm một tỉ trọng rất lớn trong nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp xúc, thiết lập các mối quan hệ làm ăn với các đối tác hàng đầu thế giới”.
Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Quá trình gia nhập WTO là một quá trình lâu dài. Ngay từ năm 1994, sau khi Việt Nam được công nhận là quan sát viên của GATT, Việt Nam đã tích cực tiến hành các cuộc đàm phán để gia nhập WTO. Tháng 12/1994, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO.
Đối với Việt Nam, việc gia nhập WTO đặt ra cho chúng ta cả những thuận lợi, thời cơ và cả những khó khăn, thách thức.
Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội và cải cách thể chế, trước hết thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta, tạo dựng moi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Muốn gia nhập WTO một cách có hiệu quả và mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước thì cần phải nghiên cứu kỹ các yêu cầu, ràng buộc, cũng như các nguyên tắc của luật chơi. Chúng ta cần phải điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế, chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với các yêu cầu của WTO, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải thay đổi cách làm, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, giảm giá thành để có thể đón nhận những cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia vào WTO.
Trở thành thành viên WTO, Việt Nam có điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ODA, FDI và các hình thức đầu tư gián tiếp) thông qua mở rộng diện các nước thành viên đầu tư vào Việt Nam.
Tuy nhiên, tham gia vào WTO, Việt Nam phải cam kết thực hiện các nghĩa
vụ liên quan đến các lĩnh vực thương mại hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư…, phải cải cách kinh tế, từ bỏ ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh bình đẳng. Việt Nam phải mở cửa thị trường, hàng hóa dịch vụ cho các nước thành viên WTO, phải xây dựng hệ thống chính sách phù hợp với WTO.
Quá trình đàm phán gia nhập WTO được tiến hành trên hai kênh: đàm phán đa phương về chế độ thương mại của Việt Nam; và đàm phán song phương về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Trên bình diện đa phương, Việt Nam đã trải qua 14 phiên đàm phán đa phương chính thức và 1 phiên đàm phán đa phương không chính thức với Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam đã trả lời trên 3000 câu hỏi và bình luận của các nước thành viên về hệ thống pháp luật, chính sách thương mại, chính sách thuế và phi thuế quan, chính sách đầu tư nước ngoài, công nghiệp, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ và cải cách kinh tế trong nước nói chung.
Nhiều cam kết và chương trình hành động của Việt Nam đã được đưa ra nhằm cụ thể hóa những yêu cầu của WTO. Đặc biệt trong lĩnh vực cải cách hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với các quy định của WTO. Việt Nam đã xem xét và thông qua nhiều Luật quan trọng, trong đó có Luật Thương mại sửa đổi, Luật Đầu tư chung, Luật Doanh nghiệp chung, Luật Sở hữu trí tuệ.
Những nỗ lực đàm phán của Việt Nam được các nước thành viên ghi nhận và ủng hộ. Trải qua nhiều vòng đàm phán song phương và đa phương ngày 11/01/2007, chúng ta đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - một thể chế kinh tế mang tính toàn cầu.
Gia nhập WTO chỉ là phương tiện để đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu của dân tộc là phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Gia nhập WTO là cam kết tham gia vào kinh tế thị trường thế giới được điều tiết bằng những luật chơi rõ ràng, những định mức và chuẩn mực khắt khe, được
tiếp cận với các thị trường rộng mở của 150 nước, Việt Nam vừa có quyền lợi, vừa có trách nhiệm, khó khăn song điều đó đem lại cho chúng ta những cơ hội và thách thức to lớn. Để được tham gia vào sân chơi này, Việt Nam phải cam kết chấp nhận các nguyên tắc đa biên, đồng thời giam mức bảo hộ của mình với việc cam kết có lộ trình loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu hay cấp phép hạn chế nhập khẩu một cách tuỳ tiện. Mặt khác, Việt Nam phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia kinh doanh trong nhiều lực vực dịch vụ với những điều kiện thông thoáng hơn.
Cùng với việc tham gia WTO, đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ kinh tế – thương mại với trên 170 quốc gia, nền kinh tế, đã ký kết gần 60 hiệp định kinh tế- thương mại song phương, trong đó có toàn bộ các nước, nền kinh tế phát triển, thị trường lớn. Chúng ta ngày càng hoạt động tích cực và hiệu quả, nâng cao vị thế đất nước trong các thể chế hợp tác quốc tế.
2.2.3. Tăng cường giao lưu văn hóa, giáo dục và các hoạt động khác
Quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện nay đang được mở rộng và đa dạng hóa. Chúng ta đã phát triển quan hệ với nhiều nước ở tất cả các châu lục, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế và các trung tâm kinh tế – chính trị thế giới trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh những lĩnh vực như chính trị, kinh tế, Việt Nam còn có những quan hệ với các nước về khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội và phát triển dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau.
Trong sự giao lưu, hội nhập về giáo dục và đào tạo, có thể nói, Việt Nam so với ngay các nước trong khu vực ASEAN cũng đã cho thấy sự “chênh về nội dung, phương pháp và chất lược của các trường học, nhất là các trường đại học” [44, tr.351]. Việc dạy và học ở Việt Nam còn mang nặng tính truyền thống, “thầy đọc trò viết”, thụ động, ít thực tế.
Một vài năm trở lại đây, trước xu thế hội nhập trên thế giới, sự giao lưu về lĩnh vực giáo dục ngày càng được đẩy mạnh. Nhiều học sinh, sinh viên, học viên