Xây Dựng Đội Ngũ Trí Thức Trong Những Năm 1986-1996


nhạy bén với xu thế tiến bộ của thế giới, đại đa số trí thức không đứng trên lập trường giai cấp cũ của mình mà chuyển sang lập trường vô sản, đã "vô sản hóa".

Sau năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ĐNTT có sự trưởng thành nhanh chóng, tăng nhanh vế số lượng, nâng cao về trình độ chuyên môn và giác ngộ về chính trị tư tưởng, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.. Từ tầng lớp trí thức có số lượng nhỏ bé và thành phần phân tán, đến năm 1954, miền Bắc đã có trên 500 người có trình độ đại học và 3.000 người có trình độ trung học chuyên nghiệp, chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa. Đến năm 1964, số người có trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp đã tăng lên 30.709 người; gấp 10 lần so với năm 1954 [53].

Với lòng yêu nước sâu sắc, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhiều trí thức được đào tạo dưới chế độ cũ và một số trí thức Việt kiều đã chấp nhận gian khổ hy sinh, từ bỏ môi trường làm việc thuận lợi, cuộc sống đầy đủ tiện nghi để trở về nước, lên chiến khu tham gia vào sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. ĐNTT đã có những cống hiến xứng đáng trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ.

Trong những nhà khoa học từ nước ngoài về nước, nhiều người có cống hiến lớn, như: Trần Đại Nghĩa từ Pháp trở về, nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều loại vũ khí phục vụ nhu cầu chiến đấu. Đặng Văn Ngữ sau 5 năm học tập và làm việc tại Nhật Bản (1943-1949), về nước mang theo giống Penecillinne. Ông đã sản xuất thành công thuốc nước kháng sinh phục vụ chữa các vết thương có nguy cơ nhiễm trùng và tìm ra phương pháp phòng chữa bệnh sốt rét hiệu quả, góp phần ngăn chặn căn bệnh nguy hiểm đang gây tổn thất lớn cho quân và dân ta...

Với những cống hiến cho đất nước, tại Đại hội toàn quốc các chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu, kỹ sư Trần Đại Nghĩa là một trong ba người được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Trong 40 chiến lao động toàn quốc, có những nhà khoa học nổi tiếng như Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Hoàng Đình


Cầu, Nguyễn Đức Khởi, kỹ sư Đặng Văn Vinh, .. Điều đó cũng thể hiện rò Đảng và Nhà nước tin tưởng, tôn vinh và đề cao lao động trí óc của trí thức.

Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, trí thức đã có những cống hiến to lớn: Đã nghiên cứu, chế tạo, cải tiến thành công nhiều loại vũ khí có hiệu quả cao, góp phần thực hiện đường lối tự lực cánh sinh, bảo đảm sự tự chủ của ta, như chế tạo thành công súng SKZ, nhiều loại bom, mìn; cải tiến thành công tên lừa SAM 2 có tầm với cao, góp phần vào đánh thắng ―siêu pháo đài bay‖ B 52; chế tạo thiết bị rà phá thuỷ lôi, góp phần giải phóng nhanh chóng các cửa sông, cửa biển, hải cảng sau Hiệp định Paris 1973,... Trí thức đã góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục các thế hệ nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc, xây dựng và củng cố quyết tâm đánh Mỹ và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Đội ngũ nhà báo đã bám sát các mặt trận, kịp thời đưa tin bài, động viên tinh thần nhân dân, chiến sỹ. Không chỉ cống hiến trí tuệ, trí thức đã không quản ngại gian khổ hiểm nguy, hy sinh xương máu trong cuộc kháng chiến, ông Đặng Văn Ngữ hy sinh anh dũng do bom đạn địch ở huyện A Lưới, Thừa Thiên - Huế năm 1967 khi đang nghiên cứu để tìm cách phòng chữa bệnh cho bộ đội. Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch qua đời tại vùng căn cứ năm 1968 sau cơn sốt rét ác tính,... Trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh, nhiều sinh viên, trí thức trẻ đã xung phong lên đường ra mặt trận. Đặc biệt, trong phong trào

―xếp bút nghiên‖ đã có hàng nghìn thày giáo và sinh viên các trường đại học xung phong lên đường ra mặt trận, nhiều người đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Đất nước thống nhất, cả nước cùng thực hiện nhiệm vụ xây dụng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, ĐNTT lớn mạnh nhanh chóng, có mặt ở mọi vùng miền, trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Số lượng trí thức tăng nhanh: Năm 1975, riêng miền Bắc có 136.800 người có trình độ đại học, đến năm 1979, có 221.900 người có trình độ đại học trở lên, trong đó có trên 3.000 tiến sỹ, phó tiến sỹ.


Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2008 - 5

Tiềm lực trí thức của đất nước được bổ sung thêm những trí thức ở các vùng mới giải phóng. Sau ngày giải phóng, các tỉnh miền Nam có trên 10 vạn người có trình độ từ trung học trở lên [48, tr. 474], trong đó có trên 3 vạn người có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên, khoảng 16 nghìn người có trình độ đại học và trên đại học. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 3.458 trí thức KH- KT; 3.122 trí thức ngành y - dược; 4.600 trí thức KHXH; 2 nghìn văn nghệ sỹ; 20 nghìn giáo chức. Trong đó, có 246 người có trình độ tiến sỹ, phó tiến sỹ và 882 thạc sỹ . Đến tháng 7-1978, ở các tỉnh phía Nam đã tuyển dụng 10.237 trí thức có trình độ đại học trở lên vào các cơ quan, xí nghiệp. Năm 1989, cả nước có 629.255 người có trình độ cao đẳng, đại học; 9.161 tiến sỹ, phó tiến sỹ và tương đương (chiếm 1,45% số người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên) [20].

Khi bước vào thời kỳ đổi mới, đại bộ phận thế hệ trí thức mới được đào tạo trong nhà trường XHCN, xuất thân từ công nông, được chế độ mới đào tạo thành trí thức, được giáo dục và rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu và lao động sáng tạo trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn. Trải qua thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH đầy khó khăn do đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, khủng hoảng KT-XH ngày càng trầm trọng, ĐNTT đã thể hiện lòng yêu nước, bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành và đức tận tụy hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Nhiều trí thức trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp trong hệ thống chính trị, đảm nhiệm những cương vị quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước, lãnh đạo các cơ quan chuyên môn, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Một số thiếu sót, yếu kém trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức


Công tác đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng trí thức thiếu quy hoạch, chưa gắn đào tạo với sử dựng nên gây ra tình trạng phát triển tự phát. ĐNTT vì thế vừa thiếu, phân tán vừa sử dụng lãng phí, hiệu quả thấp. Trong một thời gian dài, học sinh đi đào tạo ở nước ngoài chỉ học những chuyên ngành do các nước XHCN cấp chỉ tiêu mà không có định hướng, kế hoạch đào tạo theo nhu cầu của đất nước và nguyện vọng của người học. Cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo chưa thật phù


hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và phát triển các ngành, các lĩnh vực. Đội ngũ cán bộ đầu đàn và những chuyên gia có trình độ cao trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy còn ít, cán bộ có trình độ, năng lực về tổ chức và quản lý còn thiếu nhiều so với nhu cầu phát triển.

Trong cơ chế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp, chính sách hành chính hóa, công nông hóa quá mức đã xóa nhòa vị trí, vai trò của trí thức trong xã hội, không tạo được động lực để trí thức nhiệt tâm tìm tòi sáng tạo KT-XH khủng hoảng, đời sống khó khăn, nhiều trí thức phải làm những công việc giản đơn, không đúng chuyên môn được đào tạo để kiếm sống, do đó làm giảm sút niềm say mê làm việc trong nhiều trí thức, hạn chế kết quả sáng tạo.

Việc đổi mới chính sách đối với trí thức còn chậm trễ, chưa đồng bộ, điều kiện làm việc của trí thức quá thiếu thốn, lạc hậu. Chính sách tiền lương mang nặng tính bình quân. Đầu tư cho các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức còn quá thấp. Do vậy, chưa tạo động lực thúc đẩy trí thức phát huy năng lực sáng tạo.‌

2.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG NHỮNG NĂM 1986-1996


2.2.1. Những yếu tố tác động tới đội ngũ trí thức trong bối cảnh lịch sử mới


Vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam được tiến hành trong hoàn cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống các nước XHCN tan rã, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tạm thời lâm vào thoái trào.

Cuộc cách mạng KH-CN trên thế giới phát triển mạnh mẽ, kinh tế tri thức trở thành hiện thực ở một số quốc gia và là xu thế phát triển của thế giới. KH-CN phát triển vũ bão, tạo tiền đề hình thành nền văn minh trí tuệ, KH-CN dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; tri thức ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao động, trở thành tiêu chí quyền lực, tượng trưng cho sức mạnh của KT-XH. Xu thế hội nhập, quốc tế hóa kinh tế và đời sống xã hội diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các quốc gia,


dân tộc. Trước thực tế đó, trí thức Việt Nam gặp khó khăn trong việc bắt nhịp với sự phát triển của thế giới và thể hiện vai trò, vị trí của mình.

...chúng ta đang sống trong một thời đại mà cùng với quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có tác động mạnh mẽ và toàn diện đời sống các dân tộc, đến quá trình phát triển kinh tế thế giới, đến bản thân của quá trình cách mạng cải biến xã hội [125, tr.17-18].

Trong xu thế phát triển của thời đại, trí tuệ ngày càng trở thành yếu tố quyết định để mỗi quốc gia có thể hoà nhịp vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. Xây dựng ĐNTT có ý nghĩa quyết định việc cải biến, nâng cao năng lực của lực lượng sản xuất, là con đường tốt nhất để "đi tắt, đón đầu", vươn lên rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến, đẩy lùi nguy cơ của các nguy cơ là tụt hậu xa hơn về kinh tế. Do vậy, xây dựng ĐNTT vững mạnh chính là điều kiện để bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và mở rộng hợp tác bình đẳng với các nước.

ĐNTT có vai trò là lực lượng sáng tạo các giá trị văn hóa dân tộc và là lực lượng trung gian trong việc tiếp biến có hiệu quả những thành tựu của nhân loại làm giàu trí tuệ bản thân và góp phần nâng cao trình độ trí tuệ và nhân tài cho đất nước; làm cầu nối trong quan hệ đối ngoại, góp phần đa dạng hóa quan hệ ngoại giao với các nước, các dân tộc trên thế giới. Bởi vậy, xây dựng ĐNTT là phát triển nguồn nhân lực và nhân tố con người, phát huy và nâng cao tiềm lực trí tuệ và những nguồn lực nội sinh của đất nước.

Công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc là một minh chứng cụ thể của việc phát huy hiệu quả vai trò của trí thức KH-CN. Cuộc cải cách ở Trung Quốc với bài học về chú trọng xây dựng ĐNTT và KH-CN. Đặng Tiểu Bình khẳng định:

―Khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất thứ nhất‖, nhiệm vụ trọng tâm là ―Phát triển khoa học kỹ thuật cao, thực hiện công nghiệp hóa‖. Giang Trạch Dân cho rằng: ―Sáng tạo là linh hồn của một dân tộc tiến bộ, là động lực không bao giờ khô cạn của sự thịnh vượng, sự phát triển của một quốc gia‖. Chú trọng phát triển tiềm


lực trí tuệ là một trong những động lực quan trọng giúp Trung Quốc đạt những kết quả lớn trong công cuộc cải cách, mở cửa, phát triển KT-XH.

Như vậy, có thể thấy sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã mở ra khả năng chưa từng có để phát huy mọi nguồn lực của đất nước, tạo cơ hội để trí thức thể hiện tài năng trí tuệ, năng lực sáng tạo, đồng thời đặt ra những nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với ĐNTT. Để công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế thành công, yêu cầu Việt Nam phải xây dựng cho mình một ĐNTT lớn mạnh toàn diện, đồng bộ đáp ứng ngày càng tốt các đòi hỏi thực tiễn đặt ra. ĐNTT lớn mạnh, tiềm lực trí tuệ đất nước được nâng cao là một trong những yếu tố quan trọng để nắm bắt thời cơ mà xu thế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng KH-CN đem lại, CNH, HĐH đất nước thành công.

Cùng với yêu cầu phát triển KH-KT, văn hoá, thực tiễn đổi mới đất nước đặt ra nhiều vấn đề cấp bách và cơ bản đòi hỏi phải được làm sáng tỏ về lý luận, đặc biệt là về KHXH.

2.2.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ trí thức, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới (1986-1996)

Trong công tác trí thức, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng ĐNTT toàn diện, đồng bộ bao gồm nhiều khâu, nhiều bước, từ xây dựng qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, chính sách đãi ngộ. Trong đó, các khâu, các bước gắn kết, tương tác với nhau, tạo thành chỉnh thế thống nhất. Yếu kém khuyết điểm ở mỗi khâu sẽ làm giảm hiệu quả của toàn bộ quy trình xây dựng ĐNTT.

Trước hết là, xác định vai trò, vị trí và nhiệm vụ của trí thức; đổi mới công tác trí thức, định hướng xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu trước mắt chiến lược lâu dài


Đổi mới là cuộc cải biến lớn lao, toàn diện trong điều kiện cuộc cách mạng KH-CN trên thế giới phát triển mạnh mẽ, KH-CN ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhân loại đang chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao vai trò, vị trí của trí thức và đề cao nhiệm vụ xây dựng ĐNTT lớn mạnh.

Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội VI của Đảng về phát triển KH-CN, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26 NQ/TW, ngày 30-3-1991, về phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ đổi mới, xác định đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực KH-CN là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện lĩnh vực KH-CN:

Đảng lãnh đạo xây dựng các định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, phát triển đội ngũ cán bộ, các chính sách lớn đối với khoa học và kiểm tra việc thực hiện các đường lối, chủ trương, kịp thời bổ sung, tạo điều kiện cho khoa học phát triển [124, tr.571].

Nghị quyết số 26-NQ/TW vạch ra hệ thống giải pháp để phát triển KH- CN trong thời kỳ mới là: Xây dựng quy chế dân chủ trong mọi sinh hoạt khoa học; Tăng mạnh đầu tư cho các hoạt động KH-CN từ nhiều nguồn; Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về KH-CN; Kiện toàn các tổ chức KH- CN; Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý KH-CN; Đẩy mạnh phong trào lao động sáng tạo và ứng dụng tiến bộ KH-KT; Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế và chính sách quản lý kinh tế để thúc đẩy mạnh mẽ việc ứng dụng KH-CN. Thành lập Hội đồng chính sách KH-CN quốc gia để chỉ đạo việc xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển KH-CN.

Tháng 6-1991, trước yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tổng kết 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Trong đó, chúng ta nhận rò trong điều kiện thế giới đang tiến nhanh vào giai đoạn mới của cuộc cách


mạng KH-KT và từ tình hình thực tế nước ta, càng thấy rò sự bức bách trong xây dựng ĐNTT, để nguồn lực trí tuệ thực sự trở thành động lực to lớn thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1991) đã đặt nhiệm vụ cấp thiết thiết trước mắt cũng như chiến lược lâu dài là:

Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao [125, tr.141].

Đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT đồng bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời đảm bảo sự phát triển toàn diện, cả về trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm xã hội và phẩm chất đạo đức, thích ứng với tình hình thời cuộc. Thước đo của hoạt động lãnh đạo xây dựng ĐNTT là hiệu quả lao động của ĐNTT trong thực tế, sự đóng góp của trí thức đối với các lĩnh vực.

Tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chỉ rò: "xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo" [125, tr.135]. Như vậy, trong chủ trương, chính sách của Nhà nước không xem trí thức như một lực lượng riêng rẽ, độc lập, mà trí thức là một bộ phận của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, xây dựng ĐNTT lớn mạnh và đề cao vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng chính là tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân và nông dân, vai trò của tầng lớp trí thức càng được nhân lên gấp bội. Từ đó khắc phục thái độ thành kiến, hẹp hòi, thậm chí đối lập và hạ thấp vai trò của trí thức.

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí