Cơ Sở Lý Luận Về Chính Sách Đảm Bảo An Ninh Lương Thực

sự khác nhau về quan điểm và mục tiêu của các chính sách đảm bảo ANLT của hai quốc gia Indonesia và Australia là đại diện cho 2 nước có mức độ ANLT hoàn toàn khác nhau và đưa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bài viết đã so sánh mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT của hai chính phủ, chỉ ra rằng mục tiêu chính của Indonesia theo đuổi là sự tự chủ về lương thực còn ở Australia là đẩy mạnh phát triển thị trường và giúp cho người nông dân gia tăng thu nhập. Qua phân tích sự hiệu quả về đảm bảo ANLT của hai quốc gia này tác giả đưa ra khuyến nghị Việt Nam tập trung và loại cây trồng thế mạnh và thúc đẩy thương mại.

Bài báo “Overview of Vietnam‟s food security policies” của các tác giả Vu Hoang Yen, Nguyen Hong Nhung và Tran Anh Dung (2017) thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam đã đưa ra cái nhìn tổng quan về 5 nhóm chính sách đảm bảo ANLT. Phân loại các nhóm chính sách dựa trên năm nhóm nguồn lực cho phát triển nông nghiệp mà các chính sách hướng đến: đất đai, cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật, nhân lực, chính sách hỗ trợ địa phương, hệ thống phân phối lương thực. Nghiên cứu này đã cho một cái nhìn tổng quan về 5 nhóm chính sách đảm bảo ANLT theo trình tự thời gian ban hành nhưng mới ở dạng liệt kê thông thường chứ chưa đi đánh giá nội dung và hiệu quả các chính sách.

Nhóm tác giả Elizabeth Petersen, Vu Hoang Yen, David Vanzetti (2017) có một nghiên cứu chung mang tựa đề “Evaluation of Vietnam‟s food security policies” nhằm đánh giá chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam dựa trên 10 nguyên tắc của tác giả Elizabeth Petersen đã đề xuất trong bài “Policy principles for food security” (2017). Phân tích này chỉ ra những mặt không tuân thủ 10 nguyên tắc kể trên trong hệ thống chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam.

Nghiên cứu “Stakeholder perceptions on the development and effectiveness of food security policies in Vietnam” của nhóm tác giả Tran

Cong Thang, Vu Huy Phuc và Elizabeth Petersen (2017) lại đánh giá sự nhận thức của đối tượng chính sách và các bên liên quan về chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam nhằm đánh giá mức độ hiệu lực của chính sách đối với nhóm đối tượng của nó. Và cũng đưa ra đánh giá về mức điểm mạnh, điểm yếu của các chính sách đảm bảo ANLT theo nguyên tắc trên.

Nhóm nghiên cứu thuộc tổ chức Action Aid (2016) đã thực hiện nghiên cứu “Nông nghiệp Bền vững và ANLT - Đường nào cho Việt Nam?”. Đáng chú ý nghiên cứu này đã thực hiện loạt khảo sát, thống kê nhằm thu thập dữ liệu sơ cấp liên quan sử đụng đất, thu nhập của nông hộ, tình trạng cơ giới hóa và nhận biết của nông dân với chính sách. Từ đó đưa ra những so sánh sự tương đồng về mặt chính sách nông nghiệp và ANLT giữa Việt Nam và Ấn Độ, chỉ ra những thách thức trong thời gian tới.

Các tác giả trong nước cũng quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực này thể hiện qua nhiều công trình nghiên cứu khác. Tác giả Trần Hồng Hạnh (2009) với bài viết “Tổng quan về ANLT” đã tổng hợp các khái niệm ANLT theo các tổ chức thế giới. Tác giả này còn đưa ra góc nhìn về sự liên quan giữa ANLT với nghèo đói, liên hệ thực trạng ở Việt Nam và Lào.

Tác giả Trần Mạnh Tảo (2014) với bài báo “ANLT thế giới và những hàm ý cho Việt Nam” đã nghiên cứu về thực trạng ANLT trên thế giới dựa trên những khía cạnh về tính sẵn có, tính ổn định và khả năng tiếp cận đối với nguồn lương thực trên toàn cầu. Qua đó, tác giả dự báo một số nhân tố tác động đến ANLT toàn cầu trong tương lai và gợi ý một số hàm ý chính sách cho Việt Nam.

Trên góc độ nghiên cứu vùng, tác giả Nguyễn Kim Hồng và Nguyễn Thị Bé Ba (2011) đã có nghiên cứu “An ninh lương thực vùng Đồng bằng sông Cửu Long” về mức độ đảm bảo ANLT cấp vùng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long – vùng sản xuất lúa gạo lớn nhất Việt Nam dự báo đến năm 2050 và khả năng thực hiện nhiệm vụ đảm bảo ANLT cho cả nước.

Tác giả Nguyễn Văn Sánh (2009) có nghiên cứu “ANLT quốc gia: nhìn từ khía cạnh nông dân trồng lúa và giải pháp liên kết vùng và tham gia „4 nhà‟ tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” đưa ra đánh giá của tác giả về sự liên quan giữa đảm bảo thu nhập của người nông dân trồng lúa với mục tiêu đảm bảo ANLT quốc gia. Nghiên cứu này cũng đưa ra giải pháp về việc liên kết vùng, liên kết Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông nhằm đảm bảo ANLT dựa trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho người nông dân tại Đồng bằng sông Cửu Long.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Điển hình cho nghiên cứu về ANLT cho địa phương thuộc nhóm vùng sâu, vùng xa, nhóm dân số có hoàn cảnh khó khăn có bài báo của nhóm tác giả Nguyễn Viết Đăng, Lưu Văn Duy và Mạc Văn Vững (2014) tựa đề “ANLT của các hộ nghèo ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình: thực trạng và giải pháp”. Nghiên cứu này đi sâu phân tích về khả năng đảm bảo ANLT của nhóm hộ nghèo ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình dựa trên đặc điểm về địa hình và tập quán sinh hoạt của đồng bào tại khu vực này và đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng. Nghiên cứu này đã chỉ ra một số nguyên nhân khách quan về đặc điểm địa lý và cả chủ quan về mặt nhân khẩu học dẫn đến không đảm bảo ANLT của nhóm đối tượng này.

Các nghiên cứu trên của các tác giả đã cho cái nhìn về ANLT Việt Nam nói chung và một số góc nhìn đối với chính sách đảm bảo ANLT. Ở một số nghiên cứu của các tác giả khác về nông nghiệp hoặc ANLT quốc tế cũng đã đan xen một số nhận định nhỏ liên quan đến gợi ý chính sách đảm bảo ANLT cho Việt Nam. Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế quốc tế của tác giả Trần Hữu Đồng (2016) có tên “ANLT của Nam Phi và Algeria: Nghiên cứu so sánh và gợi mở chính sách cho Việt Nam” đã nghiên cứu thực trạng ANLT ở quốc gia Algeria – một quốc gia nghèo đói, nông nghiệp kém phát triển và đưa ra đưa ra một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam.

Chính sách đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam - 3

Cũng nhìn nhận theo góc độ Kinh tế quốc tế về vấn đề ANLT còn có luận văn thạc sỹ của tác giả Lê Anh Thực (2012) “ANLT của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghiên cứu này đánh giá thực trạng ANLT của Việt Nam giai đoạn 1998 đến 2012 và đưa ra nhận định khái quát các nhân tố ảnh hưởng đến ANLT Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nghiên cứu đã chỉ ra được một số quan điểm định hướng của Nhà nước đối với việc đảm bảo ANLT nhưng chưa đi sâu phân tích chính sách.

Ngoài ra còn có các báo cáo định kỳ của các tổ chức Thế giới như WB, UNDP, FAO… thống kê tình hình liên quan đến nông nghiệp, ANLT của thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích về chính sách của Việt Nam về đảm bảo ANLT trong giai đoạn từ 1986 đến nay trên góc độ Kinh tế chính trị và đưa ra nhận định cho giai đoạn 2017 – 2025. Do vậy, luận văn của tác giả sẽ đóng góp kết quả ở một góc độ nghiên cứu mới nhằm làm rõ hơn vấn đề này.


1.2. Cơ sở lý luận về chính sách đảm bảo an ninh lương thực


1.2.1. Một số khái niệm cơ bản


1.2.1.1. An ninh lương thực


Khái niệm về ANLT đã được hình thành từ lâu trên thế giới và được đưa ra bởi các tổ chức và cá nhân khác nhau, được bổ sung dần các khía cạnh về đảm bảo ANLT qua các năm.

Trong Hội nghị lương thực thế giới 1974 của Liên Hợp quốc tại Rome, khái niệm an ninh lương thực được hiểu theo nghĩa hẹp là “sự sẵn có của nguồn cung lương thực thế giới ở mọi lúc nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong điều kiện biến đổi về sản xuất và giá cả lúa gạo”.

Năm 1986, World Bank đưa ra khái niệm: An ninh lương thực là khả năng tiếp cận của con người trong mọi lúc để có đủ lương thực, nhằm đảm bảo cho hoạt động và sức khỏe.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh Lương thực Thế giới (WFS), dưới sự bảo trợ của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) năm 1996 đã đưa ra khái niệm về an ninh lương thực: “An ninh lương thực là trạng thái mà ở đó tất cả mọi người, tại mọi thời điểm, đều có sự tiếp cận cả về mặt vật chất và kinh tế đối với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và đủ dinh dưỡng, đáp ứng chế độ ăn uống và thị hiếu lương thực của mình, đảm bảo một cuộc sống năng động và khỏe mạnh” và được thống nhất sử dụng trong Báo cáo về tình hình mất an ninh lương thực năm 2001 của tổ chức này.

Các khái niệm trên cho thấy sự phát triển trong nhận thức về an ninh lương thực và các điều kiện cần có để đảm bảo ANLT. Với khái niệm được FAO đưa ra năm 1996 ta có thể khái quát bốn điều kiện cần có để đảm bảo có an ninh lương thực ở cấp độ quốc gia như sau:

Thứ nhất, sự sẵn có của nguồn lương thực: Nguồn lương thực phải có sẵn tại mọi thời điểm đủ để cung cấp cho số lượng dân số ngày càng tăng của đất nước và phù hợp với sự thay đổi chế độ ăn uống.

Thứ hai, sự tiếp cận đối với nguồn lương thực: sự tiếp cận phải dễ dàng về cả mặt vật chất và kinh tế đối với mọi người dân. Có nghĩa là, thu nhập của dân cư tại một thời điểm phải đảm bảo cho họ dễ dàng mua lương thực tại mức giá ở thời điểm đó và có điều kiện dễ dàng để mua lương thực. Những hạn chế về mặt vật chất như: khoảng cách địa lý, hệ thống vận tải, phân phối lương thực không là trở ngại cho việc tiếp cận nguồn lương thực cho người dân.

Thứ ba, sự ổn định của nguồn cung lương thực: nguồn cung lương thực phải ổn định về số lượng và mức giá trong một khoảng thời gian đủ dài. Không có sự thay đổi bất ngờ về mức giá hay biến động về số lượng gây nên những xáo trộn thị trường lương thực gây khó khăn cho người dân.

Thứ tư, sự an toàn và chất lượng của lương thực: nguồn lương thực được cung ứng phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, để đảm bảo dinh dưỡng, sức khỏe cho người tiêu dùng lương thực.

Để đánh giá mức độ đảm bảo ANLT ở các quốc gia, tổ chức nghiên cứu độc lập The Economist Intelligent Unit đã đưa ra Chỉ số ANLT toàn cầu (Global Food Security Index – GFSI). Đây là một chỉ số đáng tin cậy được công nhận trên toàn thế giới. Hàng năm các quốc gia trên thế giới được đánh giá mức độ đảm bảo ANLT theo thang điểm 100 và xếp hạng từ trên xuống dưới theo tình hình đảm bảo ANLT quốc gia.

ANLT là một trong bảy thành tố của “an ninh con người” bao gồm: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Khái niệm này lấy con người làm trung tâm, mỗi khía cạnh đề cập đến một nhu cầu cơ bản của con người. Sáu thành tố còn lại của an ninh con người đề cập đến khả năng bảo vệ con người trước những tác nhân từ bên ngoài và các mối đe dọa về: môi trường, dịch bệnh, thiếu thốn kinh tế, an toàn cá nhân, cá nhân trong cộng đồng. Khái niệm ANLT đề cập đến nhu cầu ăn uống của con người – nhu cầu cơ bản nhất. Mối đe dọa mà khái niệm này nhắc đến bao gồm cả về nguồn cung lương thực, hệ thống phân phối hiệu quả và khả năng tiếp cận lương thực thông qua trao đổi, mua bán. (UN, 2009).

1.2.1.2. Khái niệm chính sách đảm bảo ANLT

Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng (khách thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định.

Chính sách đảm bảo an ninh lương thực là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo an ninh lương thực cho toàn thể cư dân của đất nước.

Các chính sách đảm bảo an ninh lương thực hiện nay chúng ta có thể thấy thường được thể hiện thông qua các Nghị quyết của Đảng và Chính phủ, các Nghị định, Kế hoạch, Chiến lược, Thông tư… có nội dung nhằm đảm bảo ANLT trên các góc độ khác nhau.

1.2.2. Sự cần thiết của chính sách đảm bảo ANLT


Mỗi chính sách công đều là công cụ quản lý hoặc công cụ phục vụ của Nhà nước đối với xã hội. Chính sách đảm bảo ANLT là một chính sách nhằm điều chỉnh việc đảm bảo quyền lợi cơ bản của con người về lương thực, thực phẩm. Trong nền kinh tế, các nguồn lực là khan hiếm và các chủ thể phải cạnh tranh nhau nhằm tranh giành quyền sử dụng tối đa các nguồn lực. Cơ chế kinh tế thị trường có những mặt ưu việt nhưng cũng tồn tại những khuyết tật của nó. Ba trong số các khuyết tật của cơ chế thị trường là thông tin không hoàn hảo, bất bình đẳng trong phân phối, khủng hoảng kinh tế đều là nguy cơ đe dọa dẫn đến mất ANLT cho mỗi quốc gia.

Lương thực là loại vật chất cơ bản đảm bảo sự tồn tại, dinh dưỡng và sức khỏe cho con người để đảm bảo hoạt động bình thường. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, vì các khuyết tật nêu trên, không phải người dân nào cũng có cơ hội tiếp cận một cách dễ dàng và đầy đủ với nguồn lương thực vì các lí do chủ yếu là thiếu thốn nguồn cung, khả năng tài chính và khoảng cách địa lý. Trong khi nhu cầu về lương thực là nhu cầu cơ bản nhất trong các nhu cầu của con người. Việc thiếu lương thực có thể dễ đến các nguy cơ như xung đột, mâu thuẫn xã hội, suy thoái giống nòi, thiếu thể lực dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực kém làm suy yếu nền kinh tế. Do vậy, chính sách đảm bảo ANLT là một chính sách quan trọng và cần thiết cần được nghiên cứu thực hiện nghiêm túc. Chính sách đảm bảo ANLT hợp lý sẽ điều chỉnh việc sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu kinh tế vĩ mô vừa đảm bảo các mục tiêu về xã hội, môi trường hướng đến sự phát triển bền vững của quốc gia.

1.2.3. Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT và các chính sách bộ phận


1.2.3.1. Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT


Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT được phát triển dựa trên mục tiêu chung về đảm bảo ANLT: đảm bảo khả năng tiếp cận dễ dàng, tại mọi thời điểm đối với nguồn lương thực an toàn cho người dân Việt Nam. Do đó, mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT sẽ bao gồm:

- Đảm bảo nguồn cung lương thực: Đảm bảo khả năng cung ứng lương thực đáp ứng nhu cầu về ăn uống hoặc phục vụ sản xuất

- Đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực cho người dân: đảm bảo mọi người tại mọi thời điểm đều có khả năng tiếp cận về cả vật lý và tài chính đối với nguồn lương thực. Mục tiêu này nhằm đảm bảo mọi người dân không bị hạn chế về mặt khoảng cách địa lý, năng lực hành vi, mức thu nhập.

- Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tính an toàn, vệ sinh của lương thực: lương thực nhằm phục vụ ăn uống phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, việc tiêu thụ không gây ngộ độc hoặc làm suy giảm sức khỏe con người.

Những nội dung chính trên sẽ được thể chế hóa thành các văn bản chính sách cụ thể nhằm điều chỉnh các mục tiêu nhất định gồm:

1.2.3.2. Các chính sách bộ phận


- Chính sách quy hoạch diện tích gieo trồng cây lương thực: Nhằm lựa chọn và duy trì cho tương lai diện tích đất cho mục đích trồng cây lương thực.

- Chính sách nâng cao trình độ khoa học - công nghệ trong sản xuất lương thực: Nhằm cải tiến về mặt công cụ lao động giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm lương thực, thực phẩm.

- Chính sách tăng cường khả năng tiếp cận lương thực của người dân: gia tăng khả năng tiếp cận như thu hẹp khoảng cách địa lý, giảm chi phí

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/01/2023