- Thứ hai, sản phẩm CVTD chi nhánh đang triển khai chưa tạo được dấu ấn riêng của BIDV, một số sản phẩm chưa thực sự tối ưu và đem lại tiện ích cho khách hàng so với các ngân hàng khác.
Tuy đã từng bước cải tiến trong đầu tư nghiên cứu sản phẩm và hoàn thiện nhưng danh mục sản phẩm CVTD còn khá hạn hẹp, chưa tạo được sự khác biệt và tính cạnh tranh cao trên thị trường, cũng như chưa phát triển bao quát hết được nhu cầu thị trường. Cụ thể như sau:
i. Đối với sản phẩm cho vay mua, sửa chữa nhà: sản phẩm này phát triển rất hẹp, số lượng khách hàng ít và nhỏ lẻ. Hơn nữa thực tế triển khai sản phẩm CVTD tại chi nhánh còn thiếu sức cạnh tranh, điều này thể hiện:
- Thời gian cho vay tối đa ít hơn các ngân hàng khác. Tại BIDV sản phẩm cho vay mua nhà chung cư, đất dự án tối đa là 15 năm, trong khi đó, các ngân hàng khác tối đa là 20 năm thậm chí có ngân hàng lên tới 25 năm.
- Tỷ lệ cho vay tối đa là 70% giá trị tài sản đảm bảo theo định giá của BIDV. Trong khi đó ngân hàng khác tỷ lệ này cao hơn: NHTM CP Phương Nam tỷ lệ này lên tới 95% giá trị tài sản thế chấp.
- Đối với sản phẩm cho vay mua nhà đất thông thường: mức cho vay và thời hạn cho vay tối đa thấp: cho vay tối đa 50% tổng nhu cầu vốn, thời gian cho vay tối đa là 5 năm. Đây được coi là trở ngại lớn để có thể phát triển loại sản phẩm này.
Mặt khác, các yêu cầu về tài sản đảm bảo và thủ tục thế chấp tài sản còn phức tạp, chưa linh động với từng đối tượng khách hàng.
ii. Đối với sản phẩm mua ô tô trả góp: Đối với sản phẩm này chi nhánh phát triển không cao so với nhu cầu của địa bàn, dư nợ không cao, số lượng khách hàng không nhiều. Có trường hợp đang có dư nợ mua ô tô trả góp lại mua tại các salon ô tô trên địa bàn khác. Điều này thể hiện khâu tiếp thị, bán sản phẩm trên đại bàn còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Như vậy, so với các ngân hàng khác, mức cho vay, thời hạn cho vay, và các điều kiện khác của sản phẩm ít khă năng cạnh tranh hơn, chưa thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng.
- Thứ ba, đối tượng cho vay tiêu dùng của chi nhánh còn hạn hẹp, chi nhánh mới chỉ tập trung cho vay đối với khách hàng cá nhân và hộ gia đình có thu nhập cao và các cán bộ công nhân viên của hệ thống.
Các sản phẩm của BIDV tập trung nhiều vào nhóm khách hàng có thu nhập cao, không có sản phẩm nào phục vụ cho khách hàng ở khu vực nông thôn. Trong khi các ngân hàng đã bắt đầu mở rộng thị phần sang khu vực mới mẻ này. Có thể kể đến như Techcombank đưa ra các sản phẩm như: Cho vay phát triển kinh tế nông thôn, cho vay sản xuất kinh doanh điều, cho vay sản xuất kinh doanh cafe, các sản phẩm này đã hướng tới người nông dân, nếu quản lý tốt có thể đây sẽ là một thị trường hiệu quả.
Khách hàng tìm đến ngân hàng chủ yếu là khách hàng nhỏ lẻ và tự tìm hay do người giới thiệu, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng bởi những khách hàng tự tìm đến chi nhánh có thể do họ đã bị ngân hàng khác từ chối, hơn nữa điều này chứng tỏ chi nhánh đang còn thụ động trong việc tìm kiếm khách hàng để cho vay.
Đối tượng cho vay vốn của ngân hàng chỉ tập trung chủ yếu vào một số khách hàng có quan hệ giao dịch với ngân hàng và những khách hàng này thường là những người có thu nhập khá cao. Còn với loại hình cho vay tín chấp thì khách hàng chủ yếu là CBNV của ngân hàng, của các chi nhánh BIDV và một số trường hợp đặc biệt khác. Mặt khác, trong quá trình tiếp cận khách hàng mới, chi nhánh còn đặt nặng mối quan hệ của khách hàng vay mà chưa quan tâm khai thác đến tầng lớp khách hàng là cán bộ nhân viên, lãnh đạo ở các doanh nghiệp lớn, có nguồn thu nhập ổn định với nhu cầu vay vốn rất lớn.
- Thứ tư, về cơ bản chi nhánh vẫn chưa cung cấp được nhiều lợi ích đi kèm sản phẩm cho vay tiêu dùng, chưa chú trọng đến gia tăng ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại cho khách hàng.
Lợi ích của khách hàng được hưởng thêm chỉ dừng lại ở mức mở tài khoản miễn phí trong khi đó trên thị trường nhiều ngân hàng đã rất chú trọng đến các lợi ích gia tăng cho khách hàng, đem lại sự tin tưởng và thích thú cho khách hàng. Ví dụ như Teachcombank còn mua tặng bảo hiểm nhân thọ “an tâm tiêu dùng” cho khách hàng khi khách hàng sử dụng sản phẩm “cho vay tiêu dùng trả góp”.
Chi nhánh chưa đưa ra được nhiều sản phẩm cho vay kết hợp với các sản phẩm khác. Hiện tại, sự cạnh tranh sôi động trên thị trường CVTD tại Hà Nội là sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài với truyền thống và kinh nghiệm bán lẻ hàng đầu thế giới như HSBC, ANZ, Standard Chartered Bank,... các ngân hàng nước ngoài với thế mạnh về công nghệ, kinh nghiệm, chất lượng dịch vụ đang dần thu hút được sự quan
65
tâm cuả khách hàng vay vốn, trong khi chi nhánh chưa có những sản phẩm cho vay gắn với lợi ích của khách hàng để tạo lên sự khác biệt.
- Thứ năm, dư nợ cho vay tiêu dùng không có tính bền vững cao, chịu ảnh hưởng lớn của chính sách quản lý của NHNN. Lợi nhuận thu được từ CVTD nói chung và cho vay trung dài hạn còn khiêm tốn.
Có thể thấy, trong những năm gần đây tình hình tín dụng của chi nhánh đạt kết quả tốt, mặc dù con số tuyệt đối tăng dần nhưng tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trên tổng lợi nhuận lại tăng với tốc độ không đáng kể, đặc biệt tỷ lệ cho vay trung hạn còn khá thấp trong tổng dư nợ CVTD. Điều này cho thấy các sản phẩm cho vay tiêu dùng chưa thực sự đa dạng về kỳ hạn và chất lượng hoạt động cho vay này của chi nhánh chưa thực sự tốt, và chưa được khai thác triệt để.
Trong cơ cấu dư nợ CVTD của chi nhánh, dư nợ của các sản phẩm “nhạy cảm” chịu ảnh hưởng lớn của chính sách quản lý của NHNN như cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán, cho vay lĩnh vực bất động sản chiếm tỷ trọng khá lớn, dư nợ của các nhóm sản phẩm này chiếm tới 58% dư nợ CVTD. Nếu trong trường hợp, NHNN áp dụng chính sách hạn chế cho vay đối với những sản phẩm này (như đã áp dụng đối với sản phẩm cho vay kinh doanh chứng khoán) thì dư nợ CVTD của chi nhánh sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.
- Thứ sáu, công tác quản lý khi cho vay có nhiều khó khăn khi khoản vay có đảm bảo bằng tiền lương, chứng minh nguồn thu nhập để trả nợ.
Khâu xử lý hồ sơ vay đã được đơn giản hóa nhiều, tuy nhiên vẫn có những trường hợp thời gian xử lý còn bị kéo dài, gây tâm lý không tốt cho khách hàng. Năng lực quản trị rủi ro, năng lực kiểm soát và tự kiểm soát các hoạt động tín dụng bán lẻ còn chưa cao để phòng tránh các rủi ro đạo đức và rủi ro tác nghiệp. Vấn đề chứng minh thu nhập của cá nhân khi tính toán phương án vẫn chưa thực sự thống nhất giữa các bộ phận, phòng ban. Các cán bộ cho vay nhiều khi xét duyệt khoản vay vẫn làm việc dựa trên những dự đoán vì ít có cơ sở để so sánh một cách chính xác về thông tin khách hàng cung cấp và nhu cầu thực sự của họ.
Ngân hàng hiện vẫn chưa đưa ra được giải pháp để quản lý các khoản vay lương một cách hiệu quả. Một số cơ quan quản lý lao động xác nhận cho cán bộ, nhân viên của mình vay vốn cùng lúc tại nhiều TCTD khác nhau, mà không thông báo hoặc thông báo không kịp thời việc cán bộ, nhân viên chuyển công tác hoặc thôi việc dẫn
đến khó khăn trong thu hồi nợ. Có một số trường hợp, khoản tín dụng đã được bảo lãnh của cơ quan, nhưng ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn khi người trả thay không có thiện chí trả nợ.
2.3.2.2. Nguyên nhân
a) Các nhân tố chủ quan
- Thứ nhất, về quan điểm nhận thức
Nhận thức, quan điểm đối với hoạt động ngân hàng bán lẻ nói chung và hoạt động CVTD nói riêng chưa thực sự được quán triệt đầy đủ và tập trung cao độ ở hầu hết các cấp điều hành trong hệ thống Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam nói chung và tại các chi nhánh, trong đó có chi nhánh Thăng Long. Mặc dù thực tế phát triển của các ngân hàng cho thấy hoạt động ngân hàng bán lẻ là cơ sở để tạo lập một nền khách hàng vững chắc và mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và phù hợp với xu hướng phát triển chung của các ngân hàng hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại quan điểm chỉ coi trọng cho vay đối tượng khách hàng doanh nghiệp, tài trợ dự án,… mà xem nhẹ việc cho vay đối với khách hàng cá nhân, hộ gia đình. Lý do được đưa ra đó là việc cùng một khách hàng, cùng giải quyết một bộ hồ sơ, với thời gian tương đương nhau thì cho vay doanh nghiệp thông thường chuyên nghiệp hơn cá nhân, tài trợ một dự án có thể lên tới vài trăm tỷ đồng trong khi đó cho vay một cá nhân chỉ có vài chục triệu, mặt khác việc quản lý nhiều cá nhân làm cho cán bộ tốn nhiều thời gian hơn. Cán bộ QHKH khi xử lý hồ sơ cho vay KHDN sẽ sử dụng được nhiều kiến thức và học hỏi được kinh nghiệm và cũng không thể phủ nhận rằng quản lý khoản vay của các doanh nghiệp được thực hiện bài bản hơn. Do vậy cán bộ thường ngại khi phải cho cá nhân vay vốn do đó là yếu tố làm hạn chế việc mở rộng hoạt động CVTD nói riêng cũng như CVKHCN nói chung.
- Thứ hai, Chính sách phát triển CVTD tại chi nhánh chưa cụ thể và hiệu quả, mức độ đầu tư cho việc mở rộng hoạt động CVTD còn hạn chế.
Định hướng phát triển ngân hàng bán lẻ hiện đại cũng như phát triển các dịch vụ đa dạng nhiều tiện ích nói chung và việc phát triển các sản phẩm CVTD nói riêng cần có kế hoạch, chiến lược cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, hiện tại chi nhánh vẫn chưa đề ra được kế hoạch hiệu quả, chiến lược cụ thể để phát triển hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân và cũng chưa có các giải pháp sát sao để triển khai thực hiện các mục tiêu mở rộng CVTD trong ngắn hạn. Việc phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ
67
và tín dụng bán lẻ đang được thực hiện một cách tự phát tại các phòng giao dịch, phòng quan hệ khách hàng cá nhân,… với mục tiêu tăng trưởng dư nợ mà chưa có kế hoạch khai thác thị trường trong tương lai.
Cũng có thể nhận thấy do chi nhánh đang còn gặp khó khăn trong khâu xử lý nợ, cơ sở vật chất còn yếu, quy mô hoạt động nhỏ, hệ thống công nghệ thông tin còn yếu, đội ngũ cán bộ còn non trẻ chưa có kinh nghiệm triển khai các dịch vụ bán lẻ, chưa thích nghi được với cơ chế thị trường, khả năng phân tích thị trường và tổng hợp còn hạn chế. Về một khía cạnh cụ thể, chi nhánh đang thiếu chiến lược kinh doanh dài hạn bền vững cũng như chưa quan tâm thích đáng đến đối tượng khách hàng này. Hơn nữa chi nhánh cũng chưa có phương pháp thực thi chiến lược cho KHCN thông qua việc phối hợp giữa các hoạt động marketing, quản lý bán hàng, sắp xếp nhân sự.
Toàn hệ thống Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã và đang thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức kinh doanh theo mô hình TA2, tại Hội sở chính và một số chi nhánh đã tách bạch các bộ phận tham mưu, quản lý hoạt động ngân hàng bán lẻ. Hiện tại, chi nhánh Thăng Long có bộ phận chuyên thực hiện hoạt động cấp tín dụng bán lẻ (Phòng, Tổ quan hệ khách hàng cá nhân) độc lập, tuy nhiên việc bố trí cán bộ QHKHCN vẫn còn kiêm nhiệm trong quá trình tác nghiệp dẫn đến nhiều hạn chế trong công tác mở rộng CVTD cả về phát triển quy mô cho vay cá nhân cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng tín dụng bán lẻ.
- Thứ ba, sản phẩm dịch vụ cung cấp cho cá nhân, hộ gia đình chưa có tính hấp dẫn so với các sản phẩm tương tự khác của ngân hàng khác trên cùng địa bàn.
Về cơ bản, danh mục sản phẩm cho vay đối với KHCN hiện có của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam nói chung và chi nhánh nói riêng là tương đối đầy đủ nhưng chưa có tính hấp dẫn hơn do các điều kiện vẫn tương đối chặt chẽ so với các NHTM khác như: tỷ lệ cho vay thì các NHTM khác cho vay thông thường là 70% nhu cầu vay thậm chí lên đến 90% nhưng tại BIDV chỉ từ 50-60% tùy từng sản phẩm, mức cho vay không có bảo đảm của BIDV thấp và chỉ tập trung vào số ít đối tượng là cán bộ nhà nước, quy trình thủ tục đôi khi còn phức tạp, qua nhiều khâu nhiều cấp để giải ngân. Nhiều khi một khoản vay cá nhân, nhu cầu vay vốn đang rất gấp nhưng chi nhánh xử lý bộ hồ sơ qua 3 cấp phê duyệt bắt đầu từ cấp quan hệ khách đến quản trị rủi ro đến quản trị tín dụng rồi mới giải ngân dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho khách
hàng, hình ảnh về sản phẩm chưa rõ nét, chưa tạo được dấu ấn riêng cho các dòng sản phẩm CVTD của BIDV ,…
- Thứ tư, trình độ công nghệ khoa học và công tác marketing khách hàng còn chưa thực sự phát triển.
Trình độ công nghệ còn thấp, quá trình hiện đại hoá công nghệ và phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng diễn ra còn chậm, bị bỏ một khoảng cách khá xa so với các ngân hàng trong khu vực như: VCB, ACB, Techcombank …, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó việc quản lý lưu trữ hồ sơ và cá thông tin về khách hàng còn chưa thuận tiện, gây khó khăn trong việc tra cứu cũng như xem xét thông tin của khách hàng. Chi nhánh chưa có một hệ thống phần mềm lưu trữ hồ sơ, thông tin khách hàng hiện đại, có nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng từ những năm trước, khi vay mới vẫn phải cung cấp hồ sơ mới ban đầu, tạo lên một hình ảnh không chuyên nghiệp của ngân hàng trong mắt khách hàng.
Chính sách marketing chưa đạt hiệu quả: chưa có kế hoạch dài hạn nghiên cứu thị trường bao gồm nhu cầu của khách hàng, đối thủ cạnh tranh, đánh giá sản phẩm ngân hàng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như mở rộng hoạt động của ngân hàng. Chính sách quảng bá sản phẩm chưa được tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và việc tham gia các hội thảo, tài trợ trên địa bàn Cầu Giấy … để khẳng định hình ảnh chi nhánh đến người dân chưa được chú ý. Trong khi đó nhiều chi nhánh khác trên địa bàn đã sớm nhận ra vai trò quan trọng của marketing như; ACB, Techcombank, Sacombank.
- Thứ năm, nguồn nhân lực chuyên phục vụ KHCN còn hạn chế
Hiện nay, tại chi nhánh cán bộ kinh doanh có trình độ nghiệp vụ cơ bản tương đối tốt, nhưng trình độ ngoại ngữ vẫn còn hạn chế. Hơn nữa do đội ngũ cán bộ QHKHCN còn quá trẻ (hầu hết là vừa tốt nghiệp được 1- 4 năm) nên chưa có kinh nghiệm trong xử lý các tình huống giao dich với khách hàng. Trong khi đó đối với KHCN, mỗi cán bộ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc marketing các sản phẩm ngân hàng. Hơn nữa, chi nhánh vẫn chưa tách bạch công việc của cán bộ QHKH, cán bộ QHKH cá nhân thực hiện thao tác trong suốt quá trình cho vay. Ở các phòng giao dịch số lượng cán bộ KHCN ít, dẫn đến mỗi cán bộ quản lý quá nhiều khách hàng. Việc này ảnh hưởng trực tiếp đến khâu kiểm soát trong và sau của quá
69
trình cho vay và dư nợ. Hạn chế này sẽ dẫn đến chi nhánh không đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng tiềm năng.
- Kỹ năng bán hàng trong hoạt động ngân hàng bán lẻ nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng còn nhiều hạn chế.
- Chất lượng phục vụ còn chưa đồng bộ. Công tác tiếp xúc và giới thiệu sản phẩm cho vay tiêu dùng chưa thực sự được chú trọng. Cán bộ chưa tạo dựng được phong thái làm việc chuyên nghiệp, chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng bán hàng, thuyết phục khách hàng, thiếu chủ động trong việc giới thiệu sản phẩm và bán chéo sản phẩm ngân hàng.
- Khả năng phân tích, đưa ra quyết định của một bộ phận cán bộ còn nhiều yếu kém, dẫn đến việc cho vay đối với khách hàng không tốt làm phát sinh nợ xấu của chi nhánh. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, giám sát khách hàng vay chưa được chú trọng dẫn tới không bám sát khách hàng, dễ dẫn tới các rủi ro trong hoạt động tín dụng.
- Đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực tín dụng nói chung và đặc biệt cho vay tiêu dùng là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, đạo đức nghề nghiệp trong ít số bộ phận cán bộ cho vay còn chưa được coi trọng, dẫn đến các sai lầm trong hoạt cho vay, làm giảm chất lượng vay vốn.
- Công tác thu thập thông tin khách hàng còn chưa được quan tâm đúng mực mà chỉ chú trọng đến tài sản đảm bảo dẫn tới không đánh giá hết tình hình khách hàng, chưa khai thác tối đa hiệu quả khách hàng đem lại.
b) Các nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế
Trong những gần đây, tình hình kinh tế có nhiều biến động, giá cả hàng hoá liên tục gia tăng, lãi suất huy động và cho vay cũng liên tục thay đổi,.... Nền kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng nhưng chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn nhân lực, tăng vốn đầu tư chứ chưa tập trung tăng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả lao động nên chất lượng tăng trưởng thấp và chưa thật vững chắc. Do có những biến động mặc dù Nhà nước Việt Nam đã cố gắng nhưng đơn giá tiền lương của các CBNV hiện nay tương đối thấp không đủ để tái sản xuất sức lao động. Nếu họ có nhu cầu vay vốn thì cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng e ngại do ý thức và
khả năng trả nợ không cao, thu nhập lại không được thanh toán qua tài khoản ngân hàng do đó nếu họ không đến trả nợ, ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thu hồi nợ.
Tình hình biến động về lãi suất, giá vàng, giá ngoại tệ diễn ra theo từng giai đoạn của nền kinh tế ... đang tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngân hàng. Phát triển tín dụng trong bối cảnh như thế này là một bước đi mạo hiểm buộc các ngân hàng phải có những chính sách phát triển linh hoạt, tăng trưởng hay thắt chặt tín dụng, mở rộng cho vay theo từng đối tượng khách hàng trong từng giai đoạn nhất định để đảm bảo an toàn.
- Môi trường văn hoá- xã hội
Thói quen và tập quán trong tiêu dùng của người Việt Nam là tiết kiệm, tích luỹ đủ thì mới chi tiêu. Hầu hết các cá nhân cho rằng vay ngân hàng là không tốt, họ không muốn ai biết mình phải đi vay ngân hàng, thậm chí không muốn để lộ ra là mình đi vay. Bởi người Việt Nam có quan niệm rằng làm ăn không tốt mới đi vay. Ngay cả tầng lớp trí thức, có mức thu nhập cao cũng chưa quen với việc chi tiêu trước, trả tiền sau, đáp ứng ngay nhu cầu tiêu dùng hiện tại bằng các khoản thu nhập trong tương lai. Trong số những người sử dụng dịch vụ ngân hàng thì có 61% là do người quen giới thiệu, do đó người dân ít có mối quan hệ với ngân hàng.
Hơn nữa, phần lớn các doanh nghiệp vẫn thực hiện trả lương bằng tiền mặt. Số lượng các doanh nghiệp thực hiện trả lương qua tài khoản không nhiều. Điều này làm hạn chế để phát triển sản phẩm CVTD sử dụng nguồn trả nợ là lương.
- Môi trường pháp lý chưa đồng bộ
Hoạt động CVTD trên thế giới phát triển là do các nước này đã xây dựng được một hệ thống Luật pháp đồng bộ và rõ ràng. Ở Việt Nam môi trường pháp luật còn chưa hoàn thiện hoặc cách thức thi hành còn chưa đảm bảo tính thời gian, tính nghiêm minh gây rủi ro đối cho Ngân hàng. Ví dụ như:
+ Khó khăn vướng mắc trong việc nhận TSĐB nợ vay: Nghị định 163/2006/NĐ- CP ngày 29/12/2006 quy định về đảm bảo tiền vay của các TCTD: TSĐB nợ vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký hợp đồng đảm bảo. Do đó, đối với tài sản hình thành trong tương lai thì không xác định được giá trị tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng vì khi đó tài sản chưa hình thành. Điều này gây trở ngại về việc tiếp cận
71
vốn vay cho những khách hàng mua nhà của các dự án hình thành trong tương lai, hoặc mua ô tô trả góp mà dùng chính tài sản đó làm tài sản thế chấp.
+ Trong việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ: Thời gian đăng ký trong 7 ngày và cung cấp thông tin sau 3 ngày đối với các đăng ký giao dịch đảm bảo. Trong nhiều trường hợp khách hàng có nhu cầu giải ngân sớm, với thời hạn, thủ tục đăng ký ngân hàng trên sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ tín dụng của ngân hàng với khách hàng, làm mất đi cơ hội kinh doanh cho ngân hàng.
+ Việc triển khai thực hiện các nội dung về đăng ký giao dịch bảo đảm tuân thủ theo Bộ luật Dân sự, Nghị định 163/2006/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của các cơ quan ban ngành liên quan chưa được thực hiện đồng bộ, thống nhất. Tại một số nơi khi thực hiện đăng ký thế chấp, bão lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất không chứng thực kết quả thẩm tra với hợp đồng thế chấp, bảo lãnh.
+ Việc phát mại tài sản thế đòi hỏi khá nhiều thủ tục, thời gian và chi phí mà ngân hàng phải chịu rủi ro rất nhiều.
+ Thêm vào đó vấn đề tố tụng trước toà hiện nay còn kéo dài và qua nhiều giai đoạn, dễ dàng tạo điều kiện cho con nợ có ý đồ, đồng thời gây thiệt hại cho ngân hàng. Thời gian tố tụng kể từ khi khởi kiện cho đến khi quyết định của toà án có hiệu lực thi hành rồi cho đến khi phát mại được tài sản thu hồi nợ thường kéo dài gần một năm, chưa kể trường hợp có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo điều 38 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án. Tình trạng này đã làm cho ngân hàng chịu đọng vốn trong lúc ngân hàng phải chịu lãi suất huy động cho người gửi. Đây là thiệt hại lớn cho ngân hàng chưa kể chi phí phát sinh trong thủ tục tố tụng.
- Sức cạnh tranh từ các NHTM khác
Nhận thấy tiềm năng to lớn của thị trường cho vay tiêu dùng tại Việt Nam, các NHTM nhà nước, cổ phần, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài đều hướng vào mục tiêu đó, sự canh tranh diễn ra rất gay gắt.
Đầu tiên là sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài. Ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là vốn lớn, có tiềm lực tài chính và quản lý. HSBC đã được NHNN chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam
sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tai Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Đặc biệt, tầng lớp có thu nhập cao, làm việc tại các tổ chức nước ngoài sẽ có xu hướng chuyển sang vay vốn và sử dụng dịch vụ ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài như HSBC, ANZ… cũng đang lên kế hoạch phục vụ khách hàng cá nhân tại Việt Nam làm sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng với các ngân hàng nội. Những ngân hàng nước ngoài này hơn hẳn các NHTM trong nước về vốn, trình độ quản lý, nền tảng công nghệ và đã thực sự trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Họ có thể chấp nhận chi phí hoạt động cao để tạo ra những điều khoản ưu đãi, thu hút các khách hàng mới thiết lập quan hệ với ngân hàng mình. Kết quả của sự xuất hiện thêm nhiều ngân hàng nước ngoài làm cho thị phần cho vay cá nhân của ngân hàng trong nước bị chia sẻ.
Ngoài ra, sự cạnh tranh với ngân hàng trong nước cũng ngày một khắc nghiệt: với xu thế cổ phần hoá hiện nay, hàng loạt các NHTM cổ phần ra đời và hoạt động rất năng động luôn đưa ra được những sản phẩm đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Các ngân hàng như: ACB, Techcombank, Sacombank, VP bank… đều đưa ra những danh mục sản phẩm rất đa dạng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 của khóa luận đã trình bày một cách tổng quan và tương đối đầy đủ về thực trạng hoạt động mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thăng Long trong giai đoạn 3 năm trở lại đây (năm 2011, 2012 và 2013).
Thông qua việc đánh giá thực trạng mở rộng CVTD tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Thăng Long, có thể thấy bên cạnh những kết quả đã đạt được trong việc mở rộng CVTD, chi nhánh còn tồn tại những hạn chế nhất định. Để đảm bảo hoạt động an toàn và có hiệu quả trong những năm tiếp theo, đòi hỏi chi nhánh phải có các định hướng tín dụng đúng đắn và các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả đối với CVTD. Bên cạnh đó cần có các kiến nghị phù hợp với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước, với NHNN và với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam để cùng tháo gỡ những vướng mắc tồn tại, từ đó mở rộng CVTD một cách an toàn hiệu quả tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Thăng Long.
73
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY KHÁCH HÀNGCÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH THĂNG LONG
3.1 Định hướng mở rộng cho vay tiêu dùng
3.1.1 Định hướng của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
Mục tiêu đến năm 2015 “Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam phấn đấu trở thành Ngân hàng thương mại hiện đại hàng đầu Việt Nam cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ đồng bộ, đa dạng, chất lượng tốt nhất phù hợp với các phân đoạn khách hàng mục tiêu đã được xác định”.
Cho vay đối với khách hàng cá nhân đặc biệt là cho vay tiêu dùng là một phần quan trọng nhất trong mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu phát triển bán lẻ chính của BIDV
Chỉ tiêu | Đơn vị | 2012 | 2013 | 2015 | ||
A | Nhóm chỉ tiêu quy mô | |||||
1 | Huy động vốn dân cư | Tỷ VNĐ | 130,006 | 175,509 | 403,665 | |
2 | Dư nợ tín dụng bán lẻ | Tỷ VNĐ | 34,884 | 48,837 | 120,158 | |
3 | Tổng số thẻ phát hành | triệu thẻ | 3,01 | 3,62 | 5,80 | |
4 | Số lượng khách hàng | Người | 3,02 | 3,62 | 5,51 | |
B | Nhóm chỉ tiêu tăng trưởng | |||||
1 | Tăng trưởng HĐV dân cư | % | 34 | 35 | 32 | |
2 | Tăng trưởng dư nợ TDBL | % | 36 | 40 | 35 | |
3 | Tăng trưởng dịch vụ bán lẻ | % | 56 | 54 | 50 | |
4 | Tốc độ tăng trưởng thẻ phát hành | % | 26 | 20 | 17 | |
5 | Tăng trưởng nền khách hàng | % | 20 | 20 | 15 |
Có thể bạn quan tâm!
- Sứ Mạng, Tầm Nhìn Và Mục Tiêu Của Bidv Thăng Long
- Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Chi Nhánh Thăng Long Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam.
- Số Lượng Và Số Lượt Khách Hàng Vay Tiêu Dùng Qua Các Năm
- Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng tmcp đầu tư và phát triển chi nhánh thăng long - 8
- Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng tmcp đầu tư và phát triển chi nhánh thăng long - 9
Xem toàn bộ 74 trang tài liệu này.
(Nguồn : Báo cáo Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam)
3.1.2 Định hướng, mục tiêu mở rộng CVTD của chi nhánh
Tăng trưởng dư nợ CVTD theo nguyên tắc cân đối tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn, đảm bảo an toàn sử dụng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả kinh doanh. Phấn đấu tỷ lệ thu
cho vay, thu ngoài cho vay đạt mức hoàn thành kế hoạch để nâng cao năng lực tài chính cho chi nhánh tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động kinh doanh các năm tiếp theo được ổn định và bền vững.Thực hiện định hướng chung của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long sẽ đẩy mạnh hoạt động CVTD trong các năm tiếp theo. Quan điểm mở rộng CVTD trên nguyên tắc: Mở rộng CVTD đi đôi với bảo đảm chất lượng cho vay, phát triển CVTD trong phạm vi kiểm soát và quản lý cho vay; Mở rộng danh mục sản phẩm CVTD, nâng cao chất lượng ngân hàng sản phẩm dịch vụ, cung ứng sản phẩm dịch vụ hoàn hảo, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng và đảm bảo sự phù hợp của khách hàng, sự an toàn và hiệu quả, đồng thời thực hiện tuân thủ đúng pháp luật, các quy định, quy chế liên quan.
Phát triển mạnh dư nợ CVTD toàn chi nhánh phấn đấu mức tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm khoảng trên 33% cao hơn mức tăng trưởng tổng dư nợ cho vay toàn chi nhánh (khoảng 20%), với mục tiêu chiếm tỷ trọng trên tổng dư nợ và mức tăng trưởng tối thiểu bằng mức trung bình của toàn hệ thống Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Chi nhánh đảm bảo không ngừng gia tăng số lượng khách hàng, cũng như đa dạng hóa các sản phẩm CVTD và dịch vụ gắn kèm.
Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng, đảm bảo tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn tối đa thấp hơn mức nợ xấu trên tổng dư nợ và tương đương với mức toàn hệ thống Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Đảm bảo thu nợ gốc lãi đầy đủ đúng hạn, giảm số trích DPRR, giảm lãi treo nâng cao doanh lợi từ cho vay cá nhân, hộ gia đình.
Đa dạng hóa sản phẩm bán lẻ và phát triển dịch vụ trọn gói gắn kèm (mở TK, thẻ ATM, BSMS, Homebanking,...) nâng cao tiện ích ngân hàng nhằm thu hút khách hàng.
Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng trên các khía cạnh : hoàn thiện chuẩn hóa thủ tục quy trình cung cấp sản phẩm bán lẻ theo hướng nhanh gọn thuận tiện, tuân thủ cam kết khách hàng theo đúng tiêu chuẩn ISO (thời gian, thủ tục giấy tờ,...) mặt khác vẫn đảm bảo kiểm soát được rủi ro.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ ngân hàng với phong cách phục vụ chuyên nghiệp, tận tâm và chất lượng cao, đạo đức tốt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động tín dụng bán lẻ trong giai đoạn tới.
75