Mục Tiêu Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện

BHXH , bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để NLĐ tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm”.

Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 ban hành ngày 23 tháng 7 năm 2013, cũng đã nêu quan điểm nhấn mạnh vai trò của chính sách BHXH, “là trụ cột chính của hệ thống ASXH”, tập trung mục tiêu “từng bước mở rộng, tăng nhanh đối tượng tham gia, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội”.

Thứ hai, phát triển hệ thống chính sách BHXH tự nguyện linh hoạt, đa dạng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực theo truyền thống tương thân tương ái của dân tộc; phát triển BHXH tự nguyện để hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.

Để thực hiện quan điểm này, mục tiêu mở rộng hệ thống và phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đã được thực hiện từng bước trong thực tế. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Văn kiện Đại hội 7 năm 1991[6] Đảng đã đề cập đến các tiền đề để phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam “Phát triển các dịch vụ bảo hiểm sản xuất và đời sống dựa trên đóng góp tự nguyện, hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh, được Nhà nước bảo hộ”.

Tiếp đó, năm 1992 sau gần 07 năm đổi mới, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, cần nhanh chóng sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Ngày 15/04/1992, tại kỳ họp thứ 04 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Tại Điều 56 Hiến pháp quy định “Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”.

Ngày 22/06/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 1992. Ngay từ Nghị định

đầu tiên về đổi mới chính sách BHXH này, đã đưa ra hình thức BHXH tự nguyện áp dụng từ 01 đến 05 chế độ đối với những NLĐ Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mà không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội ban hành Luật BHXH, lần đầu tiên có một chế định về BHXH tự nguyện và được triển khai trong thực tế từ ngày 01 tháng 01 năm 2008.

Trong Kết luận số 23-KL/TW, ngày 29/5/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về “Một số vấn đề về tiền lương BHXH, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020”, Ban chấp hành đã tiếp tục nêu quan điểm : “Mở rộng đối tượng và bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHXH, tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng để bảo đảm cân đối Quỹ BHXH”. Về định hướng phát triển BHXH, kết luận cũng đề ra: “Về BHXH, nghiên cứu sửa đổi Luật BHXH theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và bảo đảm cân đối quỹ BHXH”.

Năm 2014, sau 6 năm thực thi Luật BHXH 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2008) đã xuất hiện một số nội dung không còn phù hợp với thực tiễn, vì vậy Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật BHXH 2014 với nhiều điều khoản thay đổi về nội dung các chế độ, đối tượng tham gia thì được điều chỉnh mở rộng nhiều hơn, đặc biệt là các chế độ và nội dung liên quan đến BHXH tự nguyện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016 của Đảng: quan điểm mở rộng đối tượng BHXH được khẳng định“Tiếp tục hoàn thiện chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống ASXH đến mọi người dân;….. Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền ASXH của công dân”.

Cũng trong Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 12, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020 quan điểm này được nhắc lại một lần nữa và cụ thể hơn, “Khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm

Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - 19

ASXH của người dân. … Mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ BHXH ”.

Thứ ba, cải cách chính sách BHXH tự nguyện vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm ASXH. Thực hiện chính sách BHXH tự nguyện phải hài hòa trong mối quan hệ với các chính sách xã hội khác; đặc biệt các chính sách tiền lương, thu nhập và trợ giúp xã hội là tiền đề và nền tảng kinh tế để thực hiện tốt chính sách BHXH tự nguyện.

Thứ tư, thực hiện tốt chính sách BHXH tự nguyện là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội.Thực hiện chính sách BHXH tự nguyện có vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo ASXH, bảo vệ thu nhập, tài chính và phòng chống đói nghèo cho NLĐ. Xuất phát từ vai trò quan trọng của BHXH tự nguyện và những khó khăn khi thực hiện mục tiêu chính sách nên việc yêu cầu sự tham gia của cả hệ thống chính trị để thực hiện chính sách là cần thiết và mang tính chiến lược.

4.1.3. Mục tiêu chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện

Giai đoạn đến năm 2021 [7]: phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; tỉ lệ giao dịch điện tử đạt 100%; thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với doanh nghiệp đạt mức ASEAN 4; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 80%.

Giai đoạn đến năm 2025 [7]: phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ

tuổi; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 85%.

Giai đoạn đến năm 2030 [7]: Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 90%.

Các định hướng này đưa ra mục tiêu đến năm 2030 “nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi” trong bối cảnh người tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta hiện này là 635.000 người so với 55 triệu người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 1 % [22]. Như vậy, định hướng phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện từ nay đến năm 2030 là 2,75-3 triệu người, tăng 500% so với hiện nay, tương ứng với 50% 1 năm. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi đối chiếu với tốc độ gia tăng BHXH tự nguyện ở Việt Nam những năm qua.

4.1.4. Quan điểm của luận án đối với chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện

Thứ nhất, tham gia BHXH tự nguyện vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của NLĐ. Chính sách BHXH tự nguyện là một chính sách thành phần của chính sách BHXH, là một chính sách ASXH quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Theo đó, tất cả mọi công dân đều có quyền được hưởng ASXH. Quyền này được quy định trong điều 22 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc ngày 10/12/1948 như sau “Mỗi người, vì là một thành viên của xã hội, đều có quyền được bảo đảm ASXH và được đảm bảo để thực thi các quyền không thể thiếu được về kinh tế, xã hội và văn hóa, phẩm giá và sự phát triển tự do nhân cách cá nhân”. Trong Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ngày 16/12/1966 được Việt Nam phê chuẩn ngày 24/9/1982 đã một lần

nữa ghi nhận “ các quốc gia thành viên của công ước công nhận quyền của mọi người được hưởng ASXH, kể cả BHXH”. Các quy tắc này đều nhằm mục đích bảo vệ tất cả các thành viên trong xã hội. Ở Việt Nam, trong thực thi chính sách ASXH nói chung và chính sách BHXH nói riêng, Nhà nước đều quán triệt nguyên tắc đảm bảo quyền này. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác ASXH nói chung và BHXH nói riêng không chỉ là quyền mà còn là một trách nhiệm của mỗi người dân. Lâu nay, chúng ta tập trung vào khía cạnh bảo vệ quyền ASXH của các thành viên trong xã hội nên mặc định đây là một nghĩa vụ của nhà nước; nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp cho xã hội và mỗi thành viên. Vì vậy, trong thực tế mặc dù Nhà nước đã đảm bảo chính sách, cung cấp dịch vụ ASXH nhưng không ít người từ chối tham gia, từ chối quyền của mình với suy nghĩ việc tham gia là không bắt buộc, là quyền và được tự do lựa chọn tham gia hay không tham gia. Trong thực tế, đảm bảo ASXH vừa là quyền vừa là trách nhiệm của tất cả các thành viên xã hội có khả năng. Vì đảm bảo ASXH cho mỗi cá nhân không những bảo vệ cho bản thân mỗi cá nhân mà chính là một biện pháp công cộng để góp phần bảo đảm ASXH cho xã hội và nhà nước. Xuất phát từ quan điểm “dân giàu, nước mạnh” thì mỗi thành viên trong xã hội trong khả năng của mình có trách nhiệm và nghĩa vụ làm giàu, tự chủ về tài chính để bảo vệ chính bản thân và gia đình mình, tránh việc để bản thân hay gia đình trở thành gánh nặng của xã hội và nhà nước. Vì vậy, tham gia các biện pháp ASXH nói chung và BHXH nói riêng vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của mỗi công dân. Điều này chưa được nhận thức đầy đủ và thực thi trong thực tế ở Việt Nam. Hiện nay, phần lớn lao động là đối tượng của chính sách BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, sau 12 năm thực thi chính sách BHXH tự nguyện số người tham gia vẫn còn rất ít. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng trong đó có một nguyên nhân là NLĐ vẫn chưa nhận thức được quyền và trách nhiệm của mình. Trong số lao động không tham gia BHXH tự nguyện có rất nhiều lao động có thu nhập ổn định và từ mức trung bình trở lên, đủ khả năng tham gia BHXH tự nguyện nhưng không tham gia. Những người không tham gia BHXH tự nguyện nếu gặp rủi ro thì rất khó khăn để đảm bảo được tài chính của mình nếu chỉ dựa vào các biện pháp cá nhân, lúc đó

gánh nặng lại được chuyển sang cho nhà nước và xã hội (bằng các biện pháp trợ giúp xã hội đột xuất và thường xuyên).

Vì vậy, thiết kế và thực thi chính sách BHXH phải đảm bảo thể hiện được nguyên tắc tham gia BHXH không chỉ là quyền lợi mà còn là trách nhiệm của tất cả NLĐ có thu nhập. NLĐ tham gia BHXH là để đảm bảo khả năng tự an sinh và phòng tránh rủi ro cho chính bản thân, giảm gánh nặng cho Nhà nước, đảm bảo sự độc lập, tự tôn của bản thân (vì không phải trông chờ vào trợ cấp của xã hội).

Thứ hai, nâng cao vai trò, vị thế của BHXH tự nguyện. BHXH tự nguyện ở Việt Nam được thực hiện trong vòng 12 năm, chính vì vậy trong quá trình ban hành và thực thi chính sách BHXH tự nguyện còn có những điều chưa phù hợp. Là một nước có quy mô nền kinh tế phi chính thức lớn, quy mô LĐPCT và nông dân lên tới 35 triệu người, chiếm 78,6% tổng số lao động [88.tr12]. Vì vậy chính sách BHXH tự nguyện có đối tượng rất lớn và nếu được thực thi tốt thì sẽ tạo chuyển biến trong việc đảm bảo ASXH của nước ta. Tuy nhiên, do mới được thực thi trong một thời gian ngắn; hoạt động triển khai gặp nhiều khó khăn, kết quả chưa cao… nên vị thế chính sách BHXH tự nguyện còn chưa được chú trọng như chính sách BHXH bắt buộc. Điều này thể hiện trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chế định điều chỉnh BHXH bắt buộc chiếm số lượng lớn hơn; chế độ và nội dung của BHXH tự nguyện ít hơn so với BHXH bắt buộc (mặc dù điều này chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan); các điều khoản về quyền lợi của người tham gia BHXH tự nguyện cũng khó khăn, hạn chế hơn so với chế độ BHXH bắt buộc. Nhiều cơ quan và địa phương có tâm lý coi BHXH tự nguyện chỉ là phần bổ sung, không bắt buộc, không quan trọng, không phải chỉ tiêu quản lý của các địa phương vì vậy không chú trọng thực thi chính sách BHXH tự nguyện. Vì vậy, để chính sách BHXH tự nguyện phát huy tác dụng trong thực tiễn thì việc quan trọng là phải đảm bảo sự công bằng về vị thế của chính sách BHXH tự nguyện so với chính sách BHXH bắt buộc và các chính sách ASXH khác. Vì vậy, trong thiết kế và thực thi chính sách BHXH tự nguyện phải rà soát, bổ sung các quy định mới để đảm bảo được nguyên tắc này.

Thứ ba, niềm tin của người dân vào hệ thống BHXH là cơ sở quan trọng tác động đến thành công của chính sách BHXH tự nguyện. BHXH tự nguyện là một nỗ lực của Nhà nước trong đảm bảo công bằng về chính sách và cơ hội cho NLĐ, từ đó đảm bảo ASXH cho tất cả người dân. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu hướng của thế giới và đáp ứng được nhu cầu của NLĐ. Tuy nhiên, bất chấp bản chất tốt đẹp của chính sách và các nỗ lực của các cơ quan nhà nước trong việc phát triển hệ thống BHXH tự nguyện, người dân vẫn thờ ơ, hoài nghi đối với chế độ BHXH tự nguyện.

Nguyên nhân của tình trạng này là do người dân không hiểu rõ về chính sách BHXH tự nguyện đồng thời suy giảm niềm tin vào các cơ quan nhà nước. Các sai phạm, hạn chế của cơ quan BHXH Việt Nam khiến người dân nghi ngờ về tính công khai, minh bạch của hệ thống BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó, rất nhiều cơ quan truyền thông thông tin, tuyên truyền các nội dung không đầy đủ, sai lệch khiến cho NLĐ hoang mang vào sự đảm bảo của hệ thống BHXH nói chung và hệ thống BHXH tự nguyện nói riêng. Nhiều phương tiện truyền thông hiện đại như mạng xã hội, các kênh thông tin không chính thống … làm cho việc lây lan các thông tin không đúng đắn một cách nhanh chóng và dễ dàng. Vì vậy, đã làm giảm sút lòng tin của người dân vào hệ thống BHXH và các cơ quan nhà nước dẫn đến tình trạng rất nhiều lao động tự do có thu nhập ổn định và từ trung bình trở lên chọn tham gia hình thức bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế thương mại… chứ không tham gia BHXH tự nguyện. Đây là một vấn đề phải lưu ý khi muốn phát triển hệ thống BHXH tự nguyện ở Việt Nam hiện nay.

Thứ tư, việc thực hiện nội dung chính sách BHXH tự nguyện phải dựa trên mức độ phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ. Chính sách BHXH tự nguyện là một chính sách ASXH có đóng góp vì vậy muốn thực thi thành công chính sách thì đảm bảo về tài chính và thu nhập của người tham gia là yếu tố bắt buộc Vì vậy, để thực hiện thành công chính sách BHXH tự nguyện điều kiện bắt buộc là NLĐ phải có thu nhập, muốn vậy phải dựa trên cơ sở kinh tế - xã hội của đất nước phát triển. Khi kinh tế - xã hội phát triển, NLĐ cải thiện và nâng cao

được thu nhập, từ đó có nguồn để tham gia BHXH, có cơ sở vật chất để mở rộng các chế độ của BHXH tự nguyện.

Ngoài ra, để khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện trong thời gian đầu thực hiện, Nhà nước đã thực thi chính sách hỗ trợ kinh phí cho người tham gia. Vì vậy, nếu tình hình kinh tế - xã hội của các địa phương và đất nước phát triển, nguồn thu ngân sách sẽ tăng lên, tạo nền tảng vật chất để hỗ trợ cho NLĐ tham gia BHXH tự nguyện, góp phần đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Thứ năm, chính sách BHXH tự nguyện phải đồng bộ và liên kết với chính sách xã hội khác. Chính sách BHXH tự nguyện vừa là chính sách kinh tế, vừa là chính sách xã hội vì vậy phải đảm bảo yêu cầu tính đồng bộ, hệ thống của chính sách trong mối quan hệ với chính sách xã hội và chính sách khác. Yêu cầu của tính đồng bộ và hệ thống là chính sách BHXH tự nguyện phải không mâu thuẫn, không chồng chéo, trùng lắp với các chính sách khác; vừa độc lập vừa bổ sung để làm hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước.

Hiện nay, chính sách BHXH tự nguyện còn liên kết rất lỏng lẻo với các chính sách khác vì vậy ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả chính sách. Việc tham gia hay không tham gia BHXH tự nguyện đối với NLĐ ít có ý nghĩa trong ngắn hạn mà chỉ có tác dụng trong dài hạn, mà NLĐ phi chính thức thì có xu hướng quan tâm đến những quyền lợi trước mắt vì thế họ không có động lực tham gia BHXH. Vì vậy, ngoài việc bổ sung các chế độ ngắn hạn trong BHXH tự nguyện thì có thể tăng tính hấp dẫn cho chính sách bằng cách liên kết với các chính sách kinh tế - xã hội như chính sách tín dụng, chính sách cho vay vốn, chính sách ưu đãi, chính sách việc làm… Việc thiết kế các nội dung này theo hướng khi NLĐ tham gia BHXH tự nguyện thì sẽ được hưởng ưu đãi và các điều kiện thuận lợi hơn. Từ các chính sách đó, thúc đẩy NLĐ tham gia BHXH tự nguyện.

4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam

4.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện

Thứ nhất, điều chỉnh thời gian tối thiểu đóng BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ hưu trí.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 17/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí