Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - 22

hỗ trợ, mức hỗ trợ hợp lý để phát huy ý thức tự nâng cao năng lực ASXH của người dân, tránh tâm lý ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước.

Thứ năm, hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện theo hướng gắn kết với các chính sách kinh tế - xã hội khác.

Hiện nay, NLĐ không “mặn mà” với BHXH tự nguyện vì nhiều lý do như thu nhập thấp, bấp bênh… Nhưng đối với nhiều NLĐ kể cả có thu nhập cao họ cũng không muốn tham gia BHXH tự nguyện. Nguyên nhân của tình trạng này là do tuyên truyên về chính sách BHXH tự nguyện chưa tốt, chưa làm thay đổi được nhận thức của người dân. NLĐ tự do đa số chưa hình thành được ý thức tự ASXH; còn thờ ơ, chưa lo lắng cho tương lai xa hoặc còn phó mặc, trông chờ nhiều vào Nhà nước. Vì vậy, để thúc đẩy NLĐ tự do tham gia BHXH tự nguyện thì phải để cho họ thấy cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của việc tham gia BHXH tự nguyện; một số giải pháp có thể thực hiện: -

- Người tham gia BHXH tự nguyện được ưu tiên vay vốn, hưởng lãi xuất ưu đãi khi vay vốn để đi lao động ở nước ngoài. Ở Việt Nam hiện nay, xuất khẩu lao động vẫn là một hình thức giải quyết việc làm hiệu quả đối với người dân nông thôn và LĐPCT. Họ cũng rất mong muốn nhận được hỗ trợ của Nhà nước để được đi xuất khẩu lao động. Vì vậy, có thể thực hiện chính sách này đối với NLĐ phi chính thức. Đối với một số trường hợp khi đi lao động ở nước ngoài yêu cầu tiền đặt cọc cao thì có thể xem xét giảm số tiền đặt cọc của người lao động, hoặc thế chấp chính số tiền đã đóng BHXH tự nguyện với các cơ quan.

- Người tham gia BHXH tự nguyện được ưu tiên trong đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, cho vay vốn đề phát triển sản xuất ở địa phương với quan điểm người tham gia BHXH tự nguyện là người có “điểm uy tín xã hội” cao và đáng tin cậy.

- Người tham gia BHXH tự nguyện có thể được hưởng ưu đãi khi vay vốn ngân hàng để mua nhà. Ở các đô thị, NLĐ tham gia BHXH tự nguyện sẽ được cộng điểm khi mua nhà ở xã hội giống người tham gia BHXH bắt buộc.

- Thử nghiệm hình thức “bán cưỡng chế” tham gia BHXH tự nguyện đối với một số đối tượng cụ thể. Tham gia BHXH tự nguyện không chỉ là

quyền lợi mà còn là trách nhiệm của NLĐ có thu nhập. Trừ những đối tượng cụ thể là người hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ chính sách, người thất nghiệp thì những đối tượng còn lại là người có thu nhập vì vậy họ có quyền lợi và nghĩa vụ tham gia BHXH như là một công cụ tài chính bảo vệ thu nhập của bản thân và gia đình, đồng thời giảm gánh nặng trợ giúp cho Nhà nước. Tuy nhiên, đây là một biện pháp rất nhạy cảm và có thể gây “sốc” đối với xã hội và NLĐ. Vì vậy, trong triển khai cần phải rất thận trọng. Trước tiên, có thể hướng đến thử nghiệm với các đối tượng lao động tự do, nông dân có thu nhập cao như người sở hữu trang trại; chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh; những lao động tự do ở thành thị…. Trong quá trình thực hiện thì cần tuyên truyền cho họ hiểu về chính sách BHXH tự nguyện. Điều kiện để phương án này thành công là liên thông chặt chẽ với các chính sách ưu đãi ở trên.

- Học tập và thử nghiệm hình thức tham gia BHXH tự nguyện theo hộ giống như mô hình của BHYT. Người tham gia BHXH tự nguyện theo hộ cũng được giảm dần mức đóng nếu một hộ có nhiều người cùng tham gia BHXH tự nguyện. Mức giảm này được ngân sách địa phương hỗ trợ thêm còn tài khoản được hưởng của người tham gia vẫn giữ nguyên. Các địa phương trên cơ sở kinh tế - xã hội của mình có thể nghiên cứu, thử nghiệm mô hình này, hiện nay nhiều địa phương đã cân đối và bổ sung thêm mức hỗ trợ này theo khả năng ngân sách của địa phương như Quảng Ninh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hưng Yên. Điều kiện chung để có thể áp dụng các quy định này là cần tính toán quy định thời gian tham gia BHXH tự nguyện tối thiểu trong thời gian bao lâu thì được hưởng các ưu đãi này, mức độ ưu đãi như thế nào. Mức tối thiểu được luận án đề xuất là phải tham gia BHXH tự nguyện 60 tháng để nhận được các ưu đãi chính sách như trên. Ngoài ra, để áp dụng được các quy định này thì cơ quan BHXH Việt Nam cũng cần phải tăng tính hợp tác, tính phục vụ hơn nữa với người tham gia BHXH tự nguyện. Vì nếu áp dụng các quy định này thì chắc chắn khối lượng công việc của cơ quan BHXH các cấp sẽ tăng thêm.

4.2.4. Giải pháp hậu cần, kỹ thuật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Thứ nhất, nâng cao chất lượng nhân lực trong lĩnh vực BHXH tự nguyện.

Đội ngũ nhân lực thực thi chính sách BHXH tự nguyện bao gồm nhiều nguồn: nhân lực của cơ quan QLNN về BHXH các cấp; nhân lực của cơ quan BHXH Việt Nam; nhân lực của các cơ quan phối hợp thực thi chính sách với cơ quan BHXH Việt Nam, bao gồm: các cơ quan truyền thông, Bưu điện Việt Nam.

Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - 22

Đối với cơ quan QLNN về BHXH bao gồm Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài chính, UBND các cấp cần tăng cường nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các nội dung liên quan đến BHXH; quy trình hoạch định và ban hành chính sách; thực thi và đánh giá chính sách BHXH tự nguyện. Tăng cường nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế về các nội dung liên quan đến BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng. Từ đó, hoàn thiện quy trình chính sách BHXH tự nguyện.

Đối với cơ quan BHXH Việt Nam, tăng cường áp dụng các sáng kiến mới trong hoạt động và quản lý. Xây dựng kế hoạch phối hợp với các cơ quan trong từng thời điểm và theo từng nội dung cụ thể. Phát triển nguồn nhân lực ngành BHXH bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Phát huy tối đa thế mạnh của từng cơ quan, đơn vị và địa phương; bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, toàn diện, khả thi, kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực công chức, viên chức hiện có, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững và phù hợp với điều kiện kinh tế

- xã hội của đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành BHXH tiếp cận trình độ quản lý, trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới. Phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành BHXH bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường khả năng liên thông, liên kết giữa các bậc học, chương trình đào tạo, cơ sở đào tạo.

Đối với các cơ quan đối tác của BHXH Việt Nam, cần tăng cường các lớp bồi dưỡng phối hợp về kiến thức BHXH tự nguyện và chính sách BHXH tự nguyện để đội ngũ nhân lực có kiến thức và kỹ năng nhất định trong tuyên truyền chính sách; trong áp dụng chính sách đối với NLĐ:

- Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn quy trình, nghiệp vụ thu, bồi dưỡng kỹ năng khai thác, vận động thu, tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH tự

nguyện; từng bước sàng lọc, tuyển chọn, đào tạo nhân viên đại lý thu trở thành chuyên nghiệp, chuyên sâu nghiệp vụ, tập trung thời gian nhiều cho công tác vận động, tuyên truyền thực hiện tốt nhiệm vụ thu; giao chỉ tiêu thu BHXH cho từng đại lý thu theo tháng, quý, năm.

- Bồi dưỡng cho nhân viên đại lý thu kỹ năng khai thác, quản lý tốt đối tượng tham gia BHXH qua tra cứu thông tin trên dữ liệu các phần mềm hỗ trợ như tra cứu thông tin người tham gia BHXH tự nguyện để nhắc NLĐ đến ngày nộp tiền và cập nhật số điện thoại của người tham gia trên phần mềm để theo dõi, thông báo nhắc đóng BHXH tự nguyện đúng hạn theo quy định. Cập nhật kịp thời những chính sách quy định mới, bổ sung, sửa đổi cho nhân viên đại lý thu, để phát huy hiệu quả trong hoạt động của mạng lưới đại lý thu, góp phần nâng cao tỷ lệ NLĐ tham gia BHXH tự nguyện.

- Thường xuyên phát huy những sáng kiến mới trong thực hiện chính sách (giống như hình thức livestream về BHXH tự nguyện trong dịch Covid đầu năm 2020); tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm các hình thức tuyên truyền và thực thi chính sách; tăng cường, bổ sung những nội dung, kỹ năng còn thiếu đối với đội ngũ nhân lực này. Khen thưởng, biểu dương kịp thời những đơn vị có mô hình, sáng kiến, thành tích tốt có tác dụng mở rộng chính sách trong từng giai đoạn.

Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách BHXH tự nguyện.

Tăng cường đối thoại chính sách giữa Nhà nước và các nhóm lợi ích trong quá trình hoạch định chính sách BHXH tự nguyện. Đối thoại chính sách là một khâu tất yếu của quá trình hoạch định chính sách mà nhờ đó chính sách được nhìn nhận, phân tích và phản biện trên các phương diện: mục tiêu, tính khả thi, v.v…qua đó nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của NLĐ để thấy được các bất cập trong nội dung chính sách. Kênh đối thoại chính sách được thực hiện duy trì chính thức, thường xuyên sẽ nâng cao chất lượng chính sách được ban hành, công bằng và hiệu quả hơn.

Tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách bằng các biện pháp kỹ thuật, tăng cường khảo sát và thu thập thông tin với số lượng lớn, từ đó có sơ sở dữ liệu lớn để có căn cứ hoạch định chính

sách. Đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình hoạch định chính sách hiện nay, tạo điều kiện để các đối tượng liên quan đến chính sách nắm được thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính sách liên quan trực tiếp, tránh để tình trạng chính sách không hợp lý, không công bằng; không khả thi.

Thực hiện đánh giá tác động chính sách trước khi ban hành chính sách BHXH tự nguyện. Cơ quan hoạch định chính sách không chỉ phải thu thập một khối lượng dữ liệu, thông tin lớn, mà còn phải vận dụng các phương pháp đánh giá tác động định tính và định lượng để xác định và dự đoán các tác động của từng phương án chính sách, thậm chí, phải tham vấn ý kiến của các bên liên quan. Do đó, đánh giá tác động chính sách trước khi ban hành sẽ giúp bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch và tiết kiệm thời gian, nhân lực, nâng cao chất lượng của báo cáo đánh giá tác động chính sách và lựa chọn được phương án chính sách tối ưu.

Thứ ba, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong thực thi chính sách BHXH tự nguyện.

BHXH tự nguyện là một chủ trương lớn và chiến lược của Đảng và Nhà nước để củng cố ASXH, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người dân và đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng. Vì vậy, trách nhiệm triển khai hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị ở các địa phương. Vì quyền lợi của NLĐ và vì sự phát triển của các địa phương, hệ thống chính trị phải phát huy lợi thế đặc biệt của mình trong thực thi chính sách.

Thực tế thực thi chính sách BHXH tự nguyện trong 2 năm qua, kể từ khi Chính phủ giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các địa phương thì kết quả thực thi BHXH tự nguyện đã tăng nhanh đáng kể. Tiếp tục phát huy kết quả này, cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong thực thi chính sách BHXH tự nguyện, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Chính quyền địa phương, các cấp Ủy đảng và các cơ quan đoàn thể tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin chính sách cho người lao động. Sự tham gia của hệ thống chính trị cơ sở khiến người dân gia tăng lòng tin với BHXH tự nguyện.

Đặc biệt, tăng cường vai trò của các cơ quan đoàn thể trong tuyên truyền và thực thi chính sách như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là những đoàn thể có số lượng thành viên lớn, hiện diện trong mọi hoạt động trong đời sống xã hội ở cơ sở vì vậy cần phối hợp với các cơ quan này để tăng hiệu quả tuyên truyền chính sách và mở rộng đối tượng tham gia.

Trong các cuộc hội thảo, hội nghị tuyên truyền về chính sách BHXH tự nguyện cần có sự xuất hiện của đại diện chính quyền địa phương hoặc các nhân vật có uy tín tại cộng đồng như chủ tịch, bí thư xã, phường; già làng, trưởng bản, cha sứ… để NLĐ thêm tin tưởng vào chính sách BHXH tự nguyện của Nhà nước. Trong thực tế, đây là ưu thế tuyệt đối của BHXH tự nguyện so với các công ty bảo hiểm thương mại khác. Tại các cuộc hội thảo, hội nghị tuyên truyền trực tiếp nếu có sự tham gia của đại diện chính quyền cấp cơ sở thì tỷ lệ thành công của hội thảo rất cao, nhiều người dân sẵn sàng đăng ký tham gia BHXH tự nguyện tại ngay hội thảo. Nhiều nơi, các cuộc hội nghị, hội thảo được tổ chức trực tiếp tại UBND xã, phường vì vậy làm cho lòng tin của người dân vào BHXH tự nguyện tăng cao và tăng mức độ sẵn lòng tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước đều lập chỉ tiêu chính sách BHXH tự nguyện và theo dõi thực hiện sát sao kịp thời việc thực hiện chỉ tiêu này.

Kết luận chương 4

Từ khi cách mạng Tháng 8 thành công cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến sự nghiệp ASXH nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo vệ người dân về an toàn tài chính mà BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng là một trụ cột cơ bản. Chương 4 của luận án đã nghiên cứu các quan điểm của Đảng và những định hướng chiến lược của Nhà nước về BHXH tự nguyện để giúp các nghiên cứu của luận án được tiến hành đúng định hướng. Trên cơ sở đó, tác giả đã xây dựng được một hệ thống các quan điểm của luận án nhằm hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện.

Từ hệ thống các quan điểm, mục tiêu của Đảng, Nhà nước về sách BHXH tự nguyện, tác giả đã đề xuất 5 năm quan điểm của luận án về chính sách BHXH tự nguyện: (1) Chính sách BHXH cần được xây dựng trên nguyên tắc tham gia BHXH vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của NLĐ; (2) Nâng cao vai trò, vị thế của BHXH tự nguyện; (3) Niềm tin của người dân vào hệ thống BHXH là cơ sở quan trọng tác động đến thành công của chính sách BHXH tự nguyện; (4) Việc thực hiện nội dung chính sách BHXH tự nguyện phải dựa trên mức độ phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; (5) Chính sách BHXH tự nguyện phải đồng bộ và liên kết với chính sách xã hội khác.

Từ đó, luận án đã đề xuất một hệ thống bao gồm 4 nhóm giải pháp chính sách BHXH tự nguyện, bao gồm: (1). Giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyên; (2). Giải pháp phát triển quỹ BHXH tự nguyện; (3). Giải pháp hoàn thiện chính sách thụ hưởng cho người tham gia BHXH tự nguyện; (4). Giải pháp hậu cần, kỹ thuật.

Nếu được vận dụng vào thực tiễn những giải pháp này có tính cần thiết và tính khả thi cao, góp phần hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện, hoàn thiện QLNN về BHXH, chăm lo và bảo vệ an toàn tài chính cho NLĐ trong giai đoạn tới, giúp ổn định ASXH đất nước.

KẾT LUẬN

ASXH là trụ cột cơ bản trong hệ thống các chính sách xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong đó, một trong những thành phần chủ yếu và cơ bản nhất của ASXH chính là BHXH. Ở một nước có dân số đông, đang già hóa dân số rất nhanh thì những kịch bản ứng phó với già hóa dân số là điều cấp bách. Yêu cầu tăng nhanh và nhiều số người tham gia BHXH, để người dân tự an sinh, tự chăm lo cho tuổi già của mình, ít trông chờ và phụ thuộc vào Nhà nước là một vấn đề chiến lược đặt ra với Đảng và các cơ quan Nhà nước.

Chính sách BHXH tự nguyện là một vấn đề quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ hiện nay để thực hiện yêu cầu trên. Thực hiện chính sách BHXH tự nguyện thành công để mở rộng sự tham gia của NLĐ, tăng cường khả năng tự an sinh của NLĐ là mục tiêu lớn trong chủ trưởng cải cách chính sách BHXH ở Việt Nam. Hiện nay, tuy thu nhập bình quân của người dân đã đạt mức trung bình là một tiền đề thuận lợi để tham gia BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn đối với mục tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Một số khó khăn có thể kể ra là số lao động tự do đông, chiếm ¾ tổng số lao động cả nước, NLĐ chủ yếu không có quan hệ lao động, vì vậy không kiểm soát được thu nhập của họ; NLĐ chưa hình thành thói quen tự an sinh, vẫn trông chờ nhiều vào chính sách của Nhà nước, thậm chí đối với cả lao động có đủ thu nhập, NLĐ chưa có lòng tin vào hệ thống BHXH. Chính sách BHXH tự nguyện còn chưa hấp dẫn do bị ràng buộc bởi các yếu tố liên quan đến nguyên tắc hoạch toán thu – chi; thực hiện chính sách BHXH tự nguyện còn nhiều khó khăn do địa bàn khó khăn, nguồn lực thiếu thốn.

Luận án với đề tài “Chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam” đã tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn về chính sách BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách BHXH. Những nội dụng cụ thể mà luận án đã đạt được là:

Thứ nhất, trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, trong chương 2 luận án đã hệ thống hóa và phân tích các vấn đề lý luận liên quan nội dung chính sách BHXH tự nguyện. Trong đó, tập trung mô tả chính sách và quy trình thực hiện

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 17/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí