Hiện nay, mức tham gia tối thiểu để được hưởng lương hưu BHXH tự nguyện là 20 năm. Mức này là mức tối thiểu và tương đối dài khiến cho nhiều NLĐ ngần ngại không muốn tham gia. Mặc dù biết rằng BHXH là “của để dành” của NLĐ vì vậy cần có thời gian tham gia tương đối dài để được hưởng, thời gian tham gia càng dài thì lợi ích càng cao. Tuy nhiên để phục vụ cho mục tiêu bao phủ, mở rộng BHXH đến đông đảo NLĐ thì trong giai đoạn này chúng ta có thể nghiên cứu rút ngắn thời gian tham gia tối thiểu của một số lao động để được hưởng bảo hiểm hưu trí. “Sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia BHXH tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt … Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho NLĐ cao tuổi, có số năm tham gia BHXH thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi BHXH” [16].
Có 8,5% cho biết sẽ tham gia BHXH tự nguyện nếu có sự điều chỉnh, bổ sung các quy định được cho là chưa hợp lý; 80% người có ý định tham gia BHXH tự nguyện mong muốn giảm thời gian đóng 20 năm như hiện hành; 56,9% chuyên gia trong lĩnh vực BHXH khi được khảo sát cũng cho rằng nên giảm thời gian tối thiểu tham gia BHXH tự nguyện xuống còn 15 năm để thu hút NLĐ tham gia.
Bảng 4.1: Đánh giá lý do BHXH tự nguyện không hấp dẫn
Số lượng (người) | Tỷ lệ (%) | |
Vì thời gian đóng quá dài | 59 | 46 |
Vì chỉ có hai chế độ | 46 | 36 |
Vì mức đóng quá cao | 15 | 11,7 |
Vì thủ tục phức tạp | 8 | 6,25 |
Tổng số | 128 | 100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Số Người Hưởng Chế Độ Bhxh Tự Nguyện Giai Đoạn 2009-2020
- Bối Cảnh, Quan Điểm Và Mục Tiêu Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Ở Việt Nam
- Mục Tiêu Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện
- Giải Pháp Hoàn Thiện Chính Sách Thụ Hưởng Cho Người Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện
- Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - 22
- Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - 23
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Nguồn: Khảo sát chuyên gia của tác giả luận án
Như vậy có thể thấy, kinh phí không phải là lý do để NLĐ ngần ngại không muốn tham gia BHXH tự nguyện vì mức sẵn sàng chi trả của họ tương đối cao. Lý do khiến đa số NLĐ còn đang phải cân nhắc chính là thời gian tham gia BHXH tự nguyện quá dài với 46% người tham gia trả lời khảo sát,
Điều này cũng trùng với kết quả khảo sát của luận án đối với đối tượng là các cán bộ BHXH các cấp.
Để thực hiện tốt được giải pháp này thì các biện pháp kỹ thuật là rất quan trọng để tính toán mức đóng, mức hưởng hợp lý. Cơ sở của giải pháp này là chúng ta sẽ thực hiện dựa trên nguyên tắc “đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít”. NLĐ khi lựa chọn thời gian đóng ngắn thì phải chấp nhận mức hưởng thấp, trong điều kiện muốn hưởng mức cao thì mức đóng phải cao. Trong thực tế, các hãng bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện mô hình này rất có hiệu quả. Hiện nay, mức tham gia tối thiểu của các hãng bảo hiểm nhân thọ thường từ 10 đến 12 năm, trong bối cảnh các hãng đó vẫn phải vận hành bộ máy và trả lương cho nhân viên. Vì vậy, giải pháp này hoàn toàn có thể thực hiện được trong thực tế với các điều kiện như quản lý bộ máy hiệu quả, đầu tư với lãi suất cao, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Thứ hai, hoàn thiện nội dung chính sách tuyên truyền về BHXH tự nguyện.
Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân NLĐ không có thông tin, kiến thức về BHXH tự nguyện là một trong những cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng độ bao phủ, phát triển chính sách BHXH tự nguyện. NLĐ không tham gia BHXH tự nguyện lý do lớn nhất không phải vì không có khả năng chi trả kinh phí mà vì không hiểu về nội dung, lợi ích và cách thức tham gia và thụ hưởng BHXH tự nguyện. Mức độ phát triển của bảo hiểm thương mại là một minh chứng cho vấn đề này. Bảo hiểm thương mại có đội ngũ tư vấn viên đông đảo, tiếp cận và thuyết phục từng NLĐ tham gia bảo hiểm thương mại. Trong khi đó, cơ quan BHXH Việt Nam còn chưa có đủ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động này. Hoạt động tuyên truyền còn chưa sâu, rộng; chưa tiếp cận được nhiều NLĐ để phổ biến thông tin, nội dung của chính sách BHXH tự nguyện. Vì vậy, NLĐ còn có tâm lý ngờ vực, không tin tưởng, không muốn tham gia BHXH tự nguyện.
Để khắc phục những vấn đề trên, cần tập trung vào hoạt động tuyên truyền về chính sách BHXH tự nguyện nhiều hơn nữa.
Một là, BHXH Việt Nam cần đổi mới nội dung tuyên truyền từ chú trọng tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách, pháp luật sang tuyên truyền về lợi ích,
vai trò, ý nghĩa và những nội dung cải cách của chính sách BHXH nhằm tạo sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện chính sách BHXH.
Nội dung tuyên truyền chính sách BHXH tự nguyện phải nhấn mạnh vào vai trò, ý nghĩa của BHXH tự nguyện là bảo vệ thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Giúp họ phòng tránh rủi ro về thu nhập, đảm bảo đời sống, giảm nhẹ một phần gánh nặng an sinh cho họ đặc biệt là khi về già. Trong một số trường hợp, NLĐ không muốn tham gia BHXH tự nguyện vì còn có tâm lý sẽ trông chờ vào sự chăm lo của con cái khi về già hoặc một số người có tâm lý chấp nhận rủi ro trong tương lai về thu nhập. Ngược lại, có nhiều nghiên cứu chỉ ra nếu NLĐ có tâm lý phòng xa, có trách nhiệm đạo lý (không muốn là gánh nặng về tài chính cho con cái) thì động cơ tham gia BHXH tự nguyện của họ sẽ rất cao. Do đó, khi thực hiện hoạt động tuyên truyền về BHXH tự nguyện cho NLĐ cần nhấn mạnh và yếu tố rủi ro khi về già mà không có thu nhập từ đó nâng cao trách nhiệm đạo lý, tâm lý đề phòng rủi ro của họ.
Hình thức tuyên truyền phải đa dạng, phù hợp với đặc điểm, tính chất đặc thù của từng nhóm đối tượng, vùng miền; tăng cường sử dụng công cụ truyền thông đa phương tiện, áp dụng công nghệ cao, mạng xã hội vào công tác tuyên truyền BHXH. Tiếp tục phát huy các hình thức tuyên truyền đã có hiệu quả như tổ chức các hội thảo về BHXH tự nguyện đến tận từng đơn vị như tổ dân phố, thôn, xóm; tăng cường thời lượng tuyên truyền trên các phương tiện phát thanh và truyền hình trung ương và địa phương; tăng cường tuyên truyền và vận động của cán bộ xã phường, thôn bản.
Phát hành các tờ rơi về nội dung chính sách đến từng người dân. Về phương pháp tuyên truyền, kết hợp hài hòa giữa hình thức tuyên truyền thường xuyên với hình thức tuyên truyền theo chiến dịch, ưu tiên tuyên truyền theo chiến dịch trong giai đoạn thể chế hóa các nội dung cải cách chính sách BHXH.
Hai là, xúc tiến quy định lồng ghép tuyên truyền nội dung chính sách BHXH và BHXH tự nguyện vào nội dung môn học Giáo dục công dân từ lớp 9 trở lên. Từ lớp 9 trung học cơ sở học sinh đã đủ tuổi bước vào độ tuổi lao động
(15 tuổi) và cũng đủ tuổi tham gia BHXH tự nguyện theo luật định. Tuy nhiên, hầu hết NLĐ không có kiến thức về BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng. Các năm qua các kênh truyền thông như báo chí, phát thanh, truyền hình đều đầu tư vào hoạt động tuyên truyền kiến thức BHXH tự nguyện nhưng kết quả không cao. Vì vậy, nghiên cứu xây dựng một kênh tuyên truyền mới về BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng là yêu cầu được đặt ra. Giải pháp phải là một kênh tuyên truyền có thể tiếp cận được số lượng đối tượng đông đảo nhất và ít tốn kém, vì vậy thông qua hệ thống các cơ sở giáo dục phổ thông là một lựa chọn thích hợp. Giải pháp là có thể lồng ghép nội dung chính sách BHXH tự nguyện vào nội dung môn học Giáo dục công dân từ lớp 9 trở lên. Đây là một sự chuẩn bị cần thiết cho các em học sinh trước khi bước vào hoạt động lao động. Nội dung môn học có thể được lồng ghép vào nội dung huấn luyện và đào tạo các kỹ năng quản lý tài chính cho NLĐ. Hiện nay, sách Giáo dục công dân lớp 9 đã có nội dung về Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế của công dân, vì vậy có thể bổ sung thêm nội dung về BHXH và quyền, nghĩa vụ của NLĐ đối với BHXH. Bộ LĐ-TB&XH có thể đề xuất và phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo để thực hiện nội dung này.
Ba là, Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH, BHXH Việt Nam và các cơ quan phối hợp như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các cơ quan truyền thông cần đặc biệt lưu ý đến việc tăng cường các biện pháp phòng tránh và xử lý các khủng hoảng truyền thông về BHXH. Các vụ việc, các thông tin không hay về hệ thống BHXH như thất thoát quỹ BHXH, các vụ án trong hệ thống BHXH hay các thông tin không chính thống, thậm chí hoàn toàn sai lệch về BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng tràn lan trên các phương tiện thông tin và mạng xã hội tạo ra những hiệu ứng xấu lây lan nhanh chóng trong người dân tạo ra những cuộc khủng hoảng truyền thông về BHXH. Do đó, chủ động nắm bắt thông tin phản hồi về chính sách BHXH và thực hiện chính sách BHXH nhằm dự báo các khủng hoảng truyền thông về BHXH có thể xảy ra và đề xuất các giải pháp phòng tránh, xử lý khủng hoảng truyền thông về BHXH nếu xảy ra là cần thiết. Chủ động thông tin, tuyên truyền nhằm xử lý kịp thời những khủng hoảng truyền
thông về BHXH và tích cực tuyên truyền sau khủng hoảng truyền thông để củng cố vững chắc niềm tin của người dân vào hệ thống BHXH.
Bốn là, BHXH Việt Nam cần tăng cường đầu tư kinh phí cho hoạt động tuyên truyền BHXH tự nguyện. Kinh phí tuyên truyền cho BHXH hiện nay được giao trong dự toán chi phí quản lý BHXH hàng năm của các đơn vị theo quy định. Hiện nay, hình thức tuyên truyền chính sách BHXH tự nguyện rất phong phú, đa dạng nhưng khả năng tiếp cận đối tượng thì còn nhiều hạn chế. Vì vậy, bên cạnh việc đầu tư cho nội dung tuyên truyền thì cần tăng cường đầu tư kinh phí tuyên truyền để hoạt động tuyên truyền có thể diễn ra liên tục ở nhiều vùng không gian và thời gian. Thù lao cho nhân lực làm công tác tuyên truyền và cho người tham dự tuyên truyền cũng cần được tăng thêm, bước đầu sử dụng thù lao làm “đòn bẩy” đối với người tuyên truyền và NLĐ tham gia BHXH tự nguyện.
Thứ ba, siết chặt các điều kiện để hưởng trợ cấp BHXH tự nguyện một lần bên cạnh đó có các giải pháp hỗ trợ cho NLĐ gặp khó khăn. Thông thường, NLĐ thường muốn hưởng trợ cấp BHXH một lần khi bị mất việc làm, ngừng và giảm thu nhập nên không thể tiếp tục tham gia BHXH. Vì vậy, nhận trợ cấp BHXH một lần là “phao cứu sinh” cho họ trong lúc khó khăn mặc dù nhiều người nhận thức được những thiệt thòi khi hưởng BHXH một lần nhưng vẫn chọn vì không còn giải pháp khác. Vì vậy, để đối phó với làn sóng hưởng trợ cấp BHXH một lần cần các giải pháp từ nhiều phía:
- Tăng cường tuyên truyền để NLĐ thấu hiểu rõ ràng quyền lợi sẽ bị mất đi khi chọn hưởng trợ cấp BHXH một lần như: không được cộng nối thời gian đóng BHXH; số tiền BHXH nhận được ít hơn so với tiền đóng; không được hưởng trợ cấp mai táng và tử tuất khi chết; không được hưởng quyền lợi thẻ bảo hiểm y tế miễn phí khi về già để tiếp tục duy trì đóng BHXH tự nguyện.
- Tuy nhiên, trong trường hợp NLĐ thực sự khó khăn thì cần có giải pháp hỗ trợ họ giải quyết khó khăn để không phải chọn cách hưởng BHXH một lần. Giải pháp đề ra là có quy định cho phép NLĐ thế chấp sổ BHXH đối với các tổ chức tín dụng để vay tiền. Số tiền tham gia BHXH tự nguyện có thể được dùng làm tài sản thế chấp, đặt cọc khi giao dịch với các tổ chức tài chính, tín dụng nhà
nước theo nguyên tắc “thỏa thuận ba bên” là bên người tham gia BHXH tự nguyện, bên cơ quan BHXH và tổ chức tài chính tín dụng. Theo đó, người tham gia BHXH tự nguyện với số tiền càng nhiều, số năm càng dài thì số vốn tín dụng vay được càng tăng. Trong trường hợp này, cơ quan BHXH và tổ chức tài chính phải kết hợp với nhau để giải quyết các quan hệ phát sinh trong hoạt động này. Giải pháp này tạo điều kiện để NLĐ vượt qua khó khăn tạm thời và giúp họ có cơ hội tiếp tục tham gia BHXH. Trở ngại lớn nhất của giải pháp này chính là phát sinh thêm các nghiệp vụ giữa cơ quan BHXH và các tổ chức tín dụng. Vì vậy, thực hiện giải pháp này cần sự quyết tâm cao của các cơ quan lãnh đạo và QLNN để tạo điều kiện và hỗ trợ NLĐ.
4.2.2. Giải pháp phát triển quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả đầu tư, công khai minh bạch quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính công có quy mô hàng đầu Việt Nam, góp phần tích cực vào phát triển, đảm bảo ASXH đất nước. Trong tình hình già hóa dân số và nhu cầu đảm bảo ASXH ngày càng cao, quỹ BHXH càng có vai trò quan trọng, cần được đảm bảo ổn định, cân bằng, bền vững trong dài hạn để đáp ứng trách nhiệm chi trả các chế độ trong hiện tại và tương lai cho người tham gia.
Hiện nay, các hình thức đầu tư quỹ BHXH đảm bảo an toàn cao nhưng chưa đa dạng, tập trung chủ yếu vào kênh trái phiếu Chính phủ, đầu tư vào dự án trọng điểm quốc gia mới chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Do đó, thời gian tới, trước đối diện với nguy cơ về già hóa dân số, tuổi thọ sau nghỉ hưu tăng cao và tỷ lệ sinh giảm đòi hỏi quỹ BHXH phải được quản lý, sử dụng, đầu tư hiệu quả hơn nữa.
Theo nội dung Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cải cách chính sách BHXH hướng tới BHXH toàn dân, đa tầng, linh hoạt. Thực hiện cải cách quản lý đầu tư quỹ BHXH là một trong 11 nội dung cải cách quan trọng với phương châm: “Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư quỹ BHXH theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, nhất là trái phiếu Chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao; từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và
quốc tế”. Danh mục đầu tư của quỹ BHXH có thể là các tài sản, các dự án hoặc các lĩnh vực mà BHXH có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư. Việc đa dạng hóa đầu tư theo danh mục giúp cho BHXH phân tán được rủi ro, tăng khả năng bảo toàn đồng vốn. Đa dạng hoá danh mục đầu tư sẽ giúp cho ngành BHXH Việt Nam có thêm nhiều cơ hội lựa chọn tài sản hoặc dự án để đầu tư. Theo chế độ hiện nay thì danh mục đầu tư của BHXH Việt Nam còn rất ít, khả năng lựa chọn của BHXH Việt Nam trong việc đầu tư vốn nhàn rỗi là rất hạn chế, do vậy cơ hội sử dụng vốn để đầu tư thu lợi cũng không nhiều.
Ngoài ra, thông tin về quỹ BHXH cần công khai, minh bạch để người lao đông và các cơ quan giám sát được biết. Trong thực tế, người tham gia BHXH hay có tâm lý không tin tưởng vào hệ thống BHXH vì không biết tiền tham gia của họ được sử dụng và quản lý như thế nào. Trong quản lý quỹ BHXH còn có những trường hợp gây thất thoát quỹ với giá trị không nhỏ. Những điều này làm giảm sút niềm tin của người dân vào hệ thống BHXH. Vì vậy, giải pháp đặt ra là phải công khai, minh bạch trong quản lý quỹ; tăng hiệu quả đầu tư và sinh lời của quỹ để tạo cơ sở thực hiện các chế độ thu chi hiệu quả. Hàng năm, cơ quan BHXH Việt Nam phải công khai quỹ trên các phương tiện thông tin đại chúng và công khai tới từng người tham gia BHXH tự nguyện bằng các giải pháp công nghệ thông tin như: gửi thư điện tử, gửi đường link để truy cập cơ sở dữ liệu, nhắn tin thông báo. Các biện pháp này thể hiện tinh thần minh bạch và đáng tin cậy của cơ quan BHXH.
Thứ hai, công khai và minh bạch quá trình tham gia BHXH tự nguyện.
BHXH Việt Nam đã tập trung xây dựng, đưa vào sử dụng hệ thống phần mềm nghiệp vụ với mục tiêu tin học hóa toàn diện hoạt động nghiệp vụ của ngành, thống nhất từ Trung ương đến địa phương nhằm công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan BHXH trên môi trường mạng, nâng cao năng lực hiệu quả phục vụ người dân và đơn vị sử dụng lao động, bao gồm các phần mềm: Lưu trữ hồ sơ điện tử ngành BHXH để số hóa tài liệu lưu trữ của Ngành; Thu và quản lý sổ thẻ; Kế toán tập trung; Xét duyệt chính sách; Quản lý đầu tư quỹ; Quản lý đấu thầu thuốc tập trung. Hiện nay, hệ thống Thông tin giám định BHYT của Ngành
hiện nay đã kết nối với hơn 12.000 cơ sở khám chữa bệnh BHYT từ tuyến xã đến Trung ương trên phạm vi toàn quốc (gần 100%). Hệ thống đã tiếp nhận hồ sơ khám chữa bệnh điện tử đề nghị thanh toán của hàng triệu lượt người khám chữa bệnh BHYT với tỷ lệ liên thông dữ liệu hàng tháng đạt hơn 95%. Vì vậy, BHXH phải tiếp tục tăng cường tin học hóa và công nghệ thông tin vào tất cả các khâu và các dịch vụ của BHXH để cung cấp dịch vụ BHXH một cách nhanh chóng, thuận tiện và hiệu quả nhất đối với người tham gia BHXH giống hệ thống BHYT.
Xuất phát từ quan điểm người tham gia BHXH tự nguyện cũng là khách hàng, vì vậy cơ quan BHXH Việt Nam cũng cần phải tăng cường chăm sóc khách hàng và tạo ra điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ trước khi tham gia và cả sau khi tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay, hầu hết người tham gia BHXH tự nguyện đánh giá thủ tục tham gia rất thuận lợi. Tuy nhiên, vẫn còn những nội dung cần hoàn thiện hơn nữa. NLĐ có những băn khoăn như có thể bị đại lý thu lừa đảo, chiếm dụng phí đóng bảo hiểm, không biết quá trình tham gia có gặp trục trặc hay không? Hiện nay, NLĐ chỉ mới tham gia đóng phí, không theo dõi được quá trình tham gia BHXH tự nguyện nên còn chưa yên tâm, tin tưởng vào hệ thống BHXH. Vì vậy, BHXH Việt Nam có thể thực hiện các biện pháp kỹ thuật hậu cần để tăng cường chăm sóc khách hàng tham gia BHXH tự nguyện, thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch. Hiện nay, BHXH Việt Nam đã vận hành những ứng dụng để theo dõi quá trình tham gia BHXH của người tham gia, tuy nhiên đối với những lao động tự do không có điều kiện phù hợp để sử dụng các ứng dụng đó thì cần thêm các hoạt động chăm sóc khách hàng khác, ví dụ, một số NLĐ tham gia khảo sát đề xuất một số nội dung sau:
- Tin nhắn nhắc nợ đối với khách hàng, nội dung là số tiền phải đóng thời hạn đóng trong kỳ đóng phí.
- Tin nhắn xác nhận số tiền đã đóng của khách hàng, để tránh trường hợp nhân viên hay đại lý bảo hiểm gian lận, lừa đảo khách hàng và cơ quan BHXH.
- Thông báo hàng năm về số tiền và số tháng tham gia về số điện thoại đăng ký của khách hàng.