Chính Sách An Sinh Xã Hội Đối Với Hộ Nghèo


bảo cuộc sống cho người dân trong toàn xã hội; theo nghĩa hẹp, ASXH hướng tới sự đảm bảo tối thiểu cho mục tiêu mưu sinh của một bộ phận dân cư thuộc nhóm yếu thế, rủi ro hay chịu thiệt thòi trong xã hội. Về vai trò của ASXH, đa số các tác giả đều thống nhấy ở điểm chung ASXH đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội; ổn định chính trị- xã hội; góp phần vào xây dựng nguồn nhân lực con người; thể hiện tính nhân văn cao cả,…

Các công trình đã cho tác giả có cái nhìn toàn diện về cấu trúc, mô hình của ASXH, hướng nghiên cứu ASXH dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội tạo nên sự ổn định, công bằng của đất nước. Mỗi tác giả đều có cách lý giải, lập luận khác nhau, phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu tạo nên bức tranh hoàn chỉnh về ASXH và chính sách ASXH đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ đổi mới, toàn cầu hóa và chủ động hội nhập quốc tế.

Các công trình nghiên cứu góp phần đưa ra những luận cứ, luận chứng thuyết phục về thực trạng ASXH đối với người dân ( nhất là những đối tượng yếu thế trong xã hội) hiện nay. Các công trình nghiên cứu từng trụ cột của chính sách ASXH, giải quyết việc làm, y tế, giáo dục… là tài liệu quý giá để luận văn có thể tiếp thu, kế thừa và phát triển trong quá trình nghiên cứu của tác giả.

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, các công trình khoa học đã phân tích các nguyên nhân ( khách quan, chủ quan, chủ yếu, thứ yếu) tác động đến quá trình thực hiện, triển khai ASXH trong thời gian qua. Các nhà khoa học đều thống nhất ở một số nguyên nhân ảnh hưởng ddeend việc thực hiện ASXH đối với người dân đó là: Một mặt, chưa đủ mạnh. Mặt khác, trong nghiên cứu về ASXH, chính sách đảm bảo ASXH còn chưa kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình tiên tiến trong đảm bảo ASXH trên địa bàn huyện, thị xã.


Dưới nhiều góc độ, lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học đã có những kiến giải, dự đoán, định hướng khác nhau về ASXH và đảm bảo ASXH. Đồng thời, trong các công trình nghiên cứu đề xuất những phương hướng và giải pháp; khuyến nghị cho Nhà nước và chính quyền địa phương, các cấp, các ngành nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả thực hiện, đảm bảo ASXH trong thời gian tới.

Mặc dù đạt được những kết quả đáng thuyết phục nhưng trên thực tế, vẫn còn những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu và cho đến nay cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách ASXH đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Việc tiến hành nghiên cứu đề tài “Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” tạo điều kiện cho chúng ta có thể nhận diện bức tranh toàn cảnh về ảnh hưởng của chính sách ASXH đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, từ đó, giúp cho nhà nước, cho các cấp chính quyền có căn cứ xây dựng, thực hiện các chế độ, chính sách phù hợp hơn nhằm đem lại hiệu quả thiết thực nhất cho hộ nghèo” góp phần cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

1.2. Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo

1.2.1. Khái niệm về an sinh xã hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

An sinh xã hội là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, khái niệm, bản chất và nội dung của nó vẫn còn nhiều quan điểm nhận thức khác nhau. Theo các tài liệu hiện có thì ASXH theo nghĩa rộng là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp” được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, được có nhà ở, được đảm bảo thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị


Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định - 3

rủi ro, tai nạn tuổi già… Theo nghĩa hẹp, ASXH được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi thiên tai, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp y tế cho các gia đình có con nhỏ, cho những người già cô đơn, trẻ mồ côi ..v..v..

Theo điều 22, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, của Liên hiệp quốc thì ASXH là một nhân quyền và được hiểu là: “Mọi người, với tư cách thành viên của xã hội, có quyền hưởng thụ ASXH; quyền này dựa trên việc thực thi các quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa cốt yếu về nhân phẩm và phát triển tự do của mỗi cá nhân, thông qua nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế, tùy theo tổ chức và nguồn lực của mỗi nước”.

Theo L. Berevidge, nhà kinh tế và xã hội học Anh (1879-1963) thì ASXH là việc đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm việc và đảm bảo một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa. Những người theo trường phái này quan niệm, hệ thống ASXH hoạt động dựa trên ba nguyên tắc: Bao phủ toàn diện; mức chi trả tương đương và quản lý tập trung, thống nhất.

Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ: ASXH được hiểu là sự đảm bảo của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.

Trong Hiến chương Đại Tây Dương: ASXH được hiểu là sự đảm bảo thực hiện quyền con người trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát triển chính kiến trong khuôn khổ luật pháp, được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở; được chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu sinh


sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, tuổi già,…

Theo ngân hàng thế giới (WB): ASXH được xây dựng dựa trên mô hình quản lý rủi ro xã hội. Triết lý của mô hình này là mỗi cá nhân, mọi gia đình, mọi cộng đồng đều phải chịu những rủi ro nhất định do thiên tai hay những biến động trong đời sống kinh tế, xã hội gây ra. Chính những rủi ro này là nguyên nhân gây ra nghèo khổ. Người nghèo là những người chịu nhiều rủi ro nhất so với các thành phần xã hội khác và ít có điều kiện tiếp cận các công cụ và phương tiện cho phép họ đối mặt với rủi ro. Vì vậy, cần xây dựng cơ chế ASXH dành cho người nghèo để hạn chế tình trạng bấp bênh của họ, tạo cho họ các phương tiện để thoát nghèo. Theo quan điểm mới dựa trên khái niệm quản lý rủi ro, hệ thống ASXH được hiểu là “toàn bộ các chính sách Nhà nước nhằm giúp đỡ các cá nhân, các gia đình và các nhóm xã hội quản lý các rủi ro của mình và cung cấp hỗ trợ cho những người nghèo khổ nhất”.

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con”.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) quan niệm: “ASXH là một hệ thống chính sách công nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia đình và cá nhân”.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “An sinh xã hội” thường được các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và những người làm công tác xã hội nhắc đến nhiều trong các cuộc hội thảo về chính sách xã hội, trên hệ thống thông tin đại chúng, cũng như trong các tài liệu, văn bản dịch. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan


điểm khác nhau về ASXH. Có quan điểm thì coi ASXH như là “bảo đảm xã hội”, “bảo trợ xã hội”, “an toàn xã hội”, hoặc là “bảo hiểm xã hội” nhưng có quan điểm khác lại cho rằng “An sinh xã hội” bao trùm các vấn đề nêu trên.

Theo GS Hoàng Chí Bảo cho rằng: ASXH sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người và xã hội. ASXH là những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt động, trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách.

Theo PGS.TS Nguyễn Hải Hữu thì “ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế- xã hội làm cho họ có nguy cơ suy giảm nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ và cung cấp các dịch vụ sức khỏe cho cộng đồng, thông qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, BHYT và trợ giúp xã hội”.

Theo GS.TS Mai Ngọc Cường, để thấy hết được bản chất, chúng ta phải tiếp cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này. Theo quan niệm của tác giả, hiểu theo nghĩa rộng: ASXH là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp: ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sống thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm, hoặc mất thu nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai dịch họa.

“Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011- 2020” ghi nhận: “ An sinh xã hội là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội


thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”. Theo “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam” khái niệm về ASXH là:

“Sự bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua biện pháp công cộng nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con…”.

Như vậy, từ các quan niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát rằng: An sinh xã hội là một hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm mục đích vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

1.2.2. Chính sách an sinh xã hội

Khác với chính sách xã hội, chính sách ASXH là hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai dịch họa.

Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế, thì một hệ thống an sinh xã hội phải có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng chính của an sinh xã hội, gồm:

Thứ nhất, những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro. Đây là tầng trên cùng của hệ thống an sinh xã hội. Chức năng của những chính sách này là hướng tới can thiệp và bao phủ toàn bộ dân cư; giúp cho mọi tầng lớp dân cư có được việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt nhất với rủi ro. Trụ cột cơ bản của tầng này là những chính sách,


chương trình về thị trường lao động tích cực như đào tạo nghề; hỗ trợ người tìm việc, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động.

Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là tầng thứ hai, gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống an sinh xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng nhất trong tầng này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng – hưởng như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, v.v… Nhóm chính sách này rất nhạy cảm, nếu phù hợp sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực cho Nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp, người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng.

Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội.Đây là tầng cuối cùng của hệ thống an sinh xã hội với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như: thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo…

1.2.3. Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo

1.2.3.1. Hộ nghèo và đặc điểm của hộ nghèo

* Hộ nghèo

Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo định nghĩa này thì mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau.

Theo định nghĩa của WB: Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều


phương diện: thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng.

Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:

Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện.

Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.

Như vậy: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.

* Đặc điểm hộ nghèo

Thứ nhất, hộ nghèo chủ yếu là các hộ nông dân với trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế, có ít đất canh tác hoặc không có đất nhưng có rất ít cơ hội có thể tạo ra thu nhập ổn định từ các hoạt động phi nông nghiệp. Những người sống dưới ngưỡng nghèo là thành viên của những hộ có chủ hộ là nông dân tự do.

Thứ hai, hộ nghèo là những hộ không có khả năng có được một dạng thu nhập ổn định nào đó từ công ăn việc làm hay từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội. Tại nhiều quốc gia, nhiều vùng, chỉ tiêu “có một công việc tốt” hay “có lương hưu” là những tiêu chuẩn để xếp các hộ vào nhóm

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 29/06/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí