BLDS Nhật Bản cũng chỉ nêu ra những vật được coi là động sản, bất động sản, vật chính, vật phụ (Điều 85 đến Điều 88)… mà không định nghĩa tài sản.
Khác với cách quy định của các bộ luật trên, pháp luật dân sự nước ta chọn cách định nghĩa tài sản bằng cách liệt kê những đối tượng được coi là tài sản "tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [38, Điều 163]. Theo cách liệt kê trên, các đối tượng là tài sản được xác định như sau:
- Vật được coi là tài sản phải là một bộ phận của thế giới vật chất và nằm trong sự kiểm soát của con người. Đồng thời, vật phải mang lại lợi ích cho con người, tức là phục vụ cho các nhu cầu về sinh hoạt, sản xuất, tiêu dùng… của con người.
- Tiền là thước đo giá trị của hàng hóa, là phương tiện thanh toán… Ngoài ra, tiền còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, nó thể hiện chủ quyền của quốc gia. Vì thế, việc phát hành, đưa tiền vào hay rút tiền khỏi lưu thông đều được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
- Giấy tờ có giá là "bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác" [43, Điểm 8 Điều 6]. Ví dụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ….
- Quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS năm 2005 "là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ". Như vậy, để một quyền được coi là quyền tài sản nó phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản đó là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Có thể kể ra các quyền tài sản như quyền nhận lợi tức cổ phiếu, quyền hưởng nhuận bút của tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật,quyền nhận thù lao của chủ sở hữu văn bằng sáng chế…
Như vậy, theo quy định của BLDS năm 2005 các đối tượng là tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Khái niệm và các quy định về tài sản, quyền sở hữu trong Luật dân sự là khái niệm gốc, là cơ sở để các luật chuyên ngành xây dựng các khái niệm tài sản cụ thể theo tính chất riêng của ngành luật mình, ví dụ như khái niệm tài sản góp vốn trong Luật Doanh nghiệp, tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ…
1.1.1. Tài sản chung của vợ chồng
1.1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Có thể bạn quan tâm!
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 1
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 2
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Của Chế Định Pháp Luật Về Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Việt Nam Từ 1945 Đến Nay
- Hậu Quả Pháp Lý Của Việc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang phát triển sôi động trên tất cả các ngành, các lĩnh vực như hiện nay, gia đình là chủ thể tham gia vào rất nhiều các hoạt động kinh tế, xã hội khác nhau. Việc hộ gia đình được BLDS công nhận là một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và Luật Đất đai công nhận hộ là chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất…đã tạo những tiền đề cơ bản để kinh tế hộ gia đình nói chung và tài sản của vợ chồng nói riêng phát triển ngày càng nhanh chóng.
Theo nội hàm của khái niệm tài sản quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 thì tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản khác. Như vậy, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng.
Tài sản của vợ chồng gồm có tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, vì phạm vi luận văn chỉ đề cập đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng nên xin phép không phân tích vấn đề tài sản riêng ở đây. Về tài sản chung, Điều 214 BLDS năm 2005 quy định "tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung" [38]. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cả vợ và chồng - vợ, chồng cùng là chủ sở hữu đối với khối tài sản đó. Đặc điểm của tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất, tức là "phần quyền của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung" [38, Khoản 1 Điều 217]. Theo đó, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Khối tài sản chung của vợ chồng thường hình thành từ khi hai bên nam nữ bắt đầu bước vào cuộc sống vợ chồng thông qua
sự kiện kết hôn và sẽ liên tục được bổ sung trong suốt thời kỳ hôn nhân bằng nhiều nguồn khác nhau.
1.1.1.2 Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản hay còn được gọi là khế ước hôn nhân hoặc hôn ước. "Hôn ước là chứng thư thể hiện sự thỏa thuận của người kết hôn hay của vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân" [19]. Bởi vậy, thành phần, nguồn gốc của khối tài sản chung của vợ chồng thường phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng được thể hiện trong hôn ước. Điển hình cho cách quy định này là BLDS Pháp, BLDS Nhật Bản…
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản pháp định.
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng [7, tr. 35].
Theo chế độ tài sản này, vợ chồng phải tuân theo quy định pháp luật về các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng như nguồn gốc tài sản, nguyên tắc sử dụng, định đoạt tài sản… Quan điểm lập pháp này được duy trì và thể hiện thống nhất trong Luật HN&GĐ của Nhà nước ta qua các thời kỳ.
Luật HN&GĐ năm 1959 là Luật HN&GĐ đầu tiên của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù được xây dựng trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, điều kiện kinh tế nhiều khó khăn và chỉ có vẻn vẹn 35 điều luật nhưng Luật HN&GĐ năm 1959 đã có những quy định đầu tiên về tài sản chung của vợ chồng "vợ và chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới" [30, Điều 15]. Với
quy định trên, có thể suy luận mọi tài sản của vợ, chồng đều là tài sản chung của vợ chồng không phân biệt tài sản do ai tạo ra, có trước hay trong thời kỳ hôn nhân… Do đó, khái niệm tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng không tồn tại trong các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959.
Đến Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, các vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng trong đó có nguồn gốc tài sản chung đã được luật quy định cụ thể hơn. Theo quy định tại Điều 14, Điều 16 Luật HN&GĐ năm 1986 và Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
Tài sản chung do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động và thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Tài sản do vợ, chồng tạo ra có thể là kết quả lao động trực tiếp của vợ chồng như giường, tủ do vợ chồng tự đóng, nhà do vợ chồng tự xây... Hoặc tài sản nhận được từ hợp đồng mua bán, trao đổi tài sản… mà một bên vợ, chồng hoặc hai vợ chồng tham gia. Trong trường hợp thứ hai này, mặc dù vợ chồng không tạo ra tài sản bằng lao động trực tiếp nhưng đã dùng tài sản hiện có của mình như tiền, vật để mua hoặc trao đổi lấy tài sản khác. Vì vậy, những tài sản này cũng được xác định là tài sản do vợ chồng tạo ra. Bằng việc nhận được một số tiền, vật… thông qua các giao dịch kể trên, ngay lập tức số tiền, vật… đó trở thành tài sản chung của vợ chồng theo hiệu lực của chế độ tài sản. Lý thuyết này được áp dụng trong cả trường hợp vợ hoặc chồng tiến hành giao dịch bằng tài sản riêng của mình. Ví dụ, vợ hoặc chồng dùng tiền riêng của mình có trước khi kết hôn để mua tivi. Do chiếc tivi được mua sau khi kết hôn, tức là trong thời kỳ hôn nhân, nên theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, đây là tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân nên chiếc tivi trở thành tài sản chung của vợ chồng chứ không phải tài sản riêng của bên đã dùng tiền riêng của mình ra mua.
Thu nhập của vợ chồng có thể bao gồm thu nhập do lao động như thu nhập từ tiền lương, tiền công…, thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh như lợi tức… và thu nhập hợp pháp khác như hoa lợi, tiền trúng thưởng xổ
số… Trong đó, thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất cũng là thu nhập do lao động khi hiểu lao động theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật chất. Các thu nhập này, không phân biệt của vợ hay chồng trực tiếp làm ra, đều là tài sản chung của vợ chồng nếu các thu nhập đó được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân tức là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Những thu nhập kể trên đặc biệt là thu nhập do lao động là nguồn đóng góp chủ yếu vào khối tài sản chung của vợ chồng vì đây là hoạt động thường xuyên và tạo nguồn thu ổn định cho vợ chồng.
Tài sản chung do vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung
Theo tập quán của người Việt, cha mẹ thường dành dụm tài sản của mình để đến lúc con cái trưởng thành hoặc lấy vợ, lấy chồng, cha mẹ cho con một số tài sản với ý nghĩa gây dựng số vốn ban đầu cho con hoặc làm của hồi môn… Vì thế, việc vợ chồng được tặng cho chung hay thừa kế chung tài sản từ cha mẹ là khá phổ biến trong thực tiễn. Tuy nhiên, liên hệ với các quy định pháp luật về thừa kế, cần lưu ý rằng, chỉ gọi là thừa kế chung khi vợ chồng cùng được gọi để hưởng di sản theo di chúc và di chúc ghi nhận rằng tài sản được chuyển giao chung cho cả vợ và chồng không phân biệt nhiều, ít hay tài sản thừa kế này của vợ, tài sản thừa kế kia của chồng. Chỉ trong trường hợp đó, tài sản thừa kế mới có thể trở thành tài sản thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất và là nguồn của tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp thừa kế theo pháp luật, dù vợ, chồng cùng hàng thừa kế ví dụ như thừa kế di sản của con - nếu con chết trước, cùng được hưởng phần di sản bằng nhau nhưng do phần tài sản thừa kế của mỗi người được xác định riêng - mỗi người là một suất thừa kế nên tài sản nhận được sẽ trở thành tài sản riêng của vợ, chồng do được thừa kế riêng mà không phải là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, thừa kế chung vợ chồng chỉ xuất hiện khi vợ chồng được thừa kế chung theo di chúc mà không xuất hiện ở thừa kế theo pháp luật. Tương tự như thừa kế, đối với trường hợp tặng cho, vợ chồng được tặng cho chung nếu theo ý chí của người tặng cho, tài sản được tặng cho cả vợ và chồng, không phân biệt
cái này cho vợ, cái khác cho chồng… Đáp ứng được điều kiện trên, tài sản được tặng cho sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung theo thỏa thuận của vợ chồng
Sau một thời gian dài cùng chung sống, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, và cùng thực hiện quyền, nghĩa vụ với nhau và với gia đình, đối với nhiều cặp vợ chồng, ranh giới giữa tài sản chung của họ và tài sản riêng của mỗi người trở nên mờ nhạt, thậm chí đến một giai đoạn nào đó, ranh giới đó mất hẳn, không còn tồn tại. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, việc chuyển hóa một tài sản riêng của mỗi người thành tài sản chung của cả hai vợ chồng thường được thực hiện qua hai phương thức: Hoặc là bằng cách họ có thể cùng nhau thỏa thuận một tài sản nào đó là tài sản chung của vợ chồng, hoặc là một bên vợ hoặc chồng, với tư cách là chủ sở hữu, tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung của hai vợ chồng. Đối với phương thức thứ nhất (cùng thỏa thuận về tài sản chung), Luật HN&GĐ năm 1986 chưa quy định. Phương thức này chỉ được ghi nhận kể từ Luật HN&GĐ năm 2000, tại Điều 27. Tuy nhiên, một điều cần phải lưu ý, theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (sau đây gọi tắt là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP): "Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng phải được lập thành văn bản và có chữ ký của cả vợ và chồng" [4, Điều 13].
Tài sản chung do áp dụng nguyên tắc suy đoán
Về nguyên tắc, đời sống hôn nhân thường kéo dài suốt cuộc đời vợ, chồng, trừ khi vợ, chồng chết trước hoặc ly hôn. Trong quá trình đó, xu hướng "lẫn lộn" tài sản chung, tài sản riêng là khó tránh khỏi và thông thường, quan hệ hôn nhân càng lâu dài thì càng khó phân biệt ranh giới giữa tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi người. Bởi vậy, khi có tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng trong những trường hợp này trở nên vô cùng khó khăn, phức tạp. Để giải quyết vấn đề có tính thực tiễn nêu trên, nhà làm luật sử dụng nguyên tắc suy đoán tài sản chung. Theo nguyên tắc này, những trường
hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng (Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000). Nguyên tắc suy đoán tài sản chung được xây dựng trên cơ sở ưu tiên và hướng tới bảo vệ lợi ích chung của gia đình. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp nào chưa phân định được tài sản chung hay tài sản riêng trong thực tế cũng áp dụng nguyên tắc này. "Nguyên tắc suy đoán tài sản chung chỉ được áp dụng một khi tính chất chung hay riêng của tài sản chưa được giải quyết dứt khoát; đối với tài sản có xuất xứ rõ ràng và xuất xứ ấy được ghi nhận ngay từ hình thức biểu hiện bề ngoài của tài sản, việc suy đoán phải bị loại trừ" [12, tr. 87]. Như vậy, với những tài sản không "rõ ràng" về nguồn gốc, trong trường hợp có tranh chấp, nếu vợ hoặc chồng muốn khẳng định tài sản đó là tài sản riêng của mình thì người đó có nghĩa vụ chứng minh. Nếu không chứng minh được quyền sở hữu riêng của mình đối với tài sản (có trước khi kết hôn, được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân) thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng theo nguyên tắc suy đoán tài sản chung nêu trên.
Tài sản chung là quyền sử dụng đất vợ chồng có được sau khi kết hôn
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, ngoài những quyền chung như quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hưởng thành quả lao động, đầu tư trên đất… người sử dụng đất còn có các quyền đối với tài sản là quyền sử dụng đất và quyền đối với tài sản gắn liền trên đất như quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất… Dưới góc độ pháp luật HN&GĐ, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ, chồng được Nhà nước giao; Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ, chồng được Nhà nước cho thuê; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được giao chung với hộ gia đình và quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng nhưng vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung (Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ 2000; Điều 24, 25, 26, 27 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP).
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, nguồn hình thành tài chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung; tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; tài sản riêng mà vợ, chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung; tài sản có tranh chấp nhưng vợ, chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng và quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn.
1.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng
1.1.2.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng
Trong hầu hết các gia đình, chức năng kinh tế được đảm bảo chủ yếu bằng tài sản chung của vợ chồng. Nó được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu vật chất hàng ngày của gia đình. Nói cách khác, tài sản chung của vợ chồng chính là nguồn sống của gia đình. Bởi vậy, việc duy trì sự ổn định, thường xuyên bổ sung và phát triển khối tài sản chung là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, do những lý do hoặc sự kiện đặc biệt mà việc duy trì khối tài sản chung đó lại không đảm bảo lợi ích của gia đình hoặc không còn điều kiện để tồn tại khối tài sản chung của vợ chồng, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong những trường hợp này được đặt ra như một tất yếu khách quan.
Bình thường, tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất - phần quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định. Khi đem chia, khối tài sản chung được phân, tách thành từng phần (tính theo hiện vật hoặc giá trị) để vợ, chồng có quyền sở hữu riêng. Sau khi chia, tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng sẽ trở thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng và vợ, chồng có toàn quyền quyết định việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó. Như vậy, "chia tài sản chung của vợ chồng là phân chia tài sản chung của vợ chồng thành từng phần thuộc sở hữu riêng của vợ và của chồng" [53].