133
tham gia thực hiện quyền lực ở từng nhánh quyền lực; cho đến quá trình kiểm soát, giám sát tính hiệu quả, bảo đảm quyền lực nhân dân trong suốt quá trình thực hiện quyền lực đó. Ngay trong nhánh quyền tư pháp, bất kỳ cơ quan nào tham gia vào nhánh quyền lực đó cũng phải có trách nhiệm kiểm soát quyền lực của chính mình và của các cơ quan khác. Hình thành cơ chế này và vận hành đúng mục đích thì Hiến pháp là văn bản phù hợp để xác lập; đồng thời, thông qua văn bản luật để cụ thể hóa cơ chế đó.
- Thực hiện đồng bộ cả cơ chế kiểm soát ngoài (với chủ thể kiểm soát không phải là các cơ quan Nhà nước) và cơ chế kiểm soát trong (với chủ thể kiểm soát là các cơ quan trong bộ máy Nhà nước). Điều này tạo ra một vòng khép kín khi kiểm soát quyền lực, nhất là quyền tư pháp. Cơ chế kiểm soát ngoài cho phép bất kỳ chủ thể không mang QLNN nào cũng đều có cơ hội và khả năng theo dõi, đánh giá việc sử dụng, thực thi QLNN có bảo đảm tính hợp pháp, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hay không. Cơ chế kiểm soát trong cho phép khả năng tự nhìn nhận, tự điều chỉnh các hoạt động của chủ thể mang QLNN. Chính sự tác động tổng hợp của cả hai cơ chế này sẽ tác động tới quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mọi cán bộ, công chức nhà nước. Đối chiếu với hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, cả cơ chế kiểm soát ngoài và cơ chế kiểm soát trong sẽ tạo ra sự kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm chất lượng của hoạt động tranh tụng, góp phần vận hành đúng mục đích, đúng bản chất trong mọi hoạt động của chính quyền nhân dân, của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thừa nhận cơ chế đồng bộ này nhằm phát huy vai trò của tất cả các chủ thể trong kiểm soát quyền tư pháp: Nhân dân, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng. Để kiểm soát QLNN có hiệu quả, khâu trọng tâm là kiểm soát phải gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng hệ thống cơ quan nhà nước, từng chức danh nhà nước nhất định. Vì thế, đối với VKS, phải kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chức năng công tố và giám sát hoạt động tư pháp; đối với Tòa án, phải kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chức năng xét xử; đối với cơ quan điều tra, phải kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố. Tại phiên tòa XXST vụ án hình sự, phải kiểm soát xét xử mà trọng tâm là kiểm soát tranh tụng giữa các chủ thể, coi đây là khâu then chốt quyết định việc ban hành bản
134
án, quyết định công minh, công bằng, chính xác. Việc kiểm soát hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa phải trên cơ sở và cụ thể hóa yêu cầu kiểm soát việc thực hiện QLNN của cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
4.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp
Pháp luật có khả năng tác động tới tất cả các yếu tố của thượng tầng chính trị pháp lý khác, đặc biệt là nhà nước. Trong đó, pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nhà nước tổ chức và hoạt động. Vì thế, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là giải pháp có vị trí quan trọng hàng đầu, giải quyết tận gốc những vấn đề khó khăn, vướng mắc, thiếu sót về cơ sở pháp lý, tạo căn cứ vững chắc cho các hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đánh giá về những hạn chế của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong tranh tụng tại phiên tòa XXHS, có nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, gây trở ngại cho các hoạt động tố tụng, ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này. Vì thế, hoàn thiện pháp luật TTHS đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu CCTP cần được tiếp tục thực hiện, đáp ứng tốt hơn yêu cầu CCTP của Đảng, Nhà nước trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 15
- Quan Điểm Bảo Đảm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Đáp Ứng Yêu Cầu Cải
- Giải Pháp Bảo Đảm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Đáp Ứng Yêu Cầu Cải
- Tăng Cường Sự Lãnh Đạo Của Các Cấp Ủy Đảng Đối Với Nâng Cao Chất Lượng Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Của Kiểm Sát Viên Viện
- Bảo Đảm Kinh Phí, Cơ Sở Vật Chất Phục Vụ Cho Nâng Cao Chất Lượng Hoạt Động Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 21
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Nội dung của giải pháp này là hoàn thiện các quy định của pháp luật (trực tiếp là pháp luật TTHS) nhằm bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa phản ánh đúng bản chất của tranh tụng; đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, mục tiêu của CCTP.
Một số vấn đề trọng tâm cần tập trung hoàn thiện pháp luật TTHS có liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nói chung và chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST vụ án hình sự nói riêng bao gồm:
+ Hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Cơ quan tiến hành TTHS gồm cơ quan điều tra, VKS và Tòa án. Đây là những cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong việc giải quyết các thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Thẩm quyền đó được quy định trong pháp luật TTHS mà quan trọng
135
nhất là Bộ luật TTHS năm 2015. Mỗi cơ quan được pháp luật xác định có chức năng riêng. Đối với cơ quan điều tra có chức năng chính là tiến hành tiếp nhận, giải quyết các thông tin về tội phạm, thực hiện các hoạt động theo thẩm quyền để xác định tội phạm, người phạm tội và đề nghị truy tố. Cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra là những cơ quan mà chức năng chính không phải là tiến hành các hoạt động điều tra nêu trên nhưng được pháp luật trao cho quyền tiến hành một số hoạt động điều tra đối với các vụ án hình sự xảy ra trong địa bàn hoặc liên quan tới lĩnh vực mà cơ quan đó quản lý, sau đó chuyển cho cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết tiếp theo. Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử các vụ án, trong đó có vụ án hình sự. Trong quá trình xét xử, Tòa án (thông qua HĐXX) sẽ ban hành phán quyết, xác định tội phạm và quyết định hình phạt đối với tội phạm đó. Viện Kiểm sát là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại phiên tòa XXST vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong quy định của pháp luật TTHS hiện hành có những quy định chưa phân định rõ chức năng của Tòa án, VKS và cơ quan điều tra. Cụ thể: Tại Điều 15 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về việc xác định sự thật của vụ án đã nêu: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội…” [86]. Điều này gắn liền với trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bao gồm cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS và Tòa án. Điều 252 Bộ luật TTHS năm 2015 cũng quy định về việc Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ và nêu rõ tại khoản 6 Điều 252 “Trường hợp Tòa án đã yêu cầu VKS bổ sung chứng cứ nhưng VKS không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án” [86]. Như vậy, quy định này đã trực tiếp thừa nhận Tòa án có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra - một hoạt động vốn dĩ không thể thuộc thẩm quyền của cơ quan có chức năng xét xử, đóng vai trò trọng tài, trung gian để giải quyết vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tại Điều 153 Bộ luật TTHS năm 2015, quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, quy định các cơ quan sau có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS và Tòa án
136
(HĐXX). Trong đó, tại khoản 4 Điều này nêu rõ: “HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm” [86]. Với quy định này, Tòa án (thông qua HĐXX) được xác định có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Chúng tôi cho rằng, việc trao thẩm quyền này cho Tòa án sẽ không đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án khi mà Tòa án vừa là cơ quan có thẩm quyền khởi tố (mang tính buộc tội, bởi đây là trường hợp mà tại phiên tòa phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm), vừa là cơ quan có thẩm quyền xét xử, quyết định việc buộc tội đó là đúng hay sai, hợp pháp hay bất hợp pháp. Vì thế, để bảo đảm Tòa án thực hiện đúng chức năng xét xử, phân định rõ chức năng của Tòa án, VKS và cơ quan điều tra cần phải xác định rõ Tòa án chỉ thực hiện các hoạt động thuộc chức năng xét xử; bao gồm bỏ quy định Tòa án có thẩm quyền điều tra và quy định HĐXX có quyền khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa vì không phù hợp với chức năng cơ bản của Tòa án (chức năng xét xử) và không phù hợp với thực tiễn (hầu như HĐXX không ra quyết định khởi tố vụ án tại phiên tòa). Với trách nhiệm chứng minh tội phạm, nên để trách nhiệm này chỉ thuộc về cơ quan điều tra và VKS. Việc phát hiện tội phạm trong quá trình xét xử thì nên quy định theo hướng Tòa án đề nghị VKS hoặc cơ quan điều tra khởi tố.
+ Hoàn thiện quy định về người bào chữa trong TTHS:
Bào chữa là một quyền đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013, thuộc phạm vi nội dung quyền con người, quyền công dân. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [84]. Cụ thể hóa quyền này, tại Điều 16 Bộ luật TTHS năm 2015 đã nêu rõ: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [86]. Điều 72 Bộ luật này giải thích rõ về người bào chữa “là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa” [86]; xác định người bào chữa gồm: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý [86]. Trong số những người này thì bào chữa viên nhân
137
dân sẽ bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) khi được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa. Việc thuê luật sư bào chữa không phải bị cáo nào cũng đủ khả năng. Do đó, trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa có thể thực hiện bào chữa cho bị cáo. Theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì người được trợ giúp pháp lý bao gồm 07 nhóm đối tượng (Người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV) [88]. Theo quy định này, nếu bị cáo có khó khăn về tài chính mà không thuộc các trường hợp nêu trên hoặc có hạn chế về nhận thức thì cũng không được bào chữa bởi trợ giúp viên pháp lý. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoành hành, gây nhiều hệ lụy về kinh tế - xã hội, việc rơi vào các trường hợp khó khăn về tài chính là điều khó tránh khỏi. Do đó, cần nghiên cứu mở rộng trường hợp bị cáo được bào chữa bởi trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp có khó khăn về tài chính, được chính quyền cấp xã xác nhận hoặc có hạn chế về nhận thức. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo, trong trường hợp cần có người bào chữa, nhằm bảo đảm bị cáo được hưởng quyền được bảo vệ đầy đủ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi ở vào các trường hợp bản thân khó có thể tự thực hiện được quyền bào chữa có hiệu quả do những hạn chế, khó khăn nhất định.
+ Hoàn thiện quy định về thu thập chứng cứ của người bào chữa:
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là tại phiên toà XXST vụ án hình sự, chứng cứ là vấn đề rất quan trọng. Theo Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2015 thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, “được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc
138
giải quyết vụ án” [86]. Để có thể sử dụng, phát huy vai trò của chứng cứ, người bào chữa phải tiến hành thu thập chứng cứ. Bộ luật TTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền “thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa” (Điều 81) [86]; “đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ” (Điều 73) [86]; “Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập” (Điều 81) [86]; “Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án” (Điều 81). Với quy định này, pháp luật cho phép người bào chữa tự mình hoặc nhờ cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ và trong các trường hợp, họ lại phải có nghĩa vụ kịp thời giao nộp chứng cứ cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây là chứng cứ “liên quan đến việc bào chữa” chứ không phải là chứng cứ “phục vụ cho mục đích bào chữa”. Điều này không tạo lợi thế (nhất là về thời điểm đưa ra chứng cứ) cho người bào chữa mà vốn dĩ họ thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người mà họ tiến hành bào chữa. Đồng thời, quy định này cũng mâu thuẫn với quy định về việc xác định sự thật của vụ án, “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội” (Điều 15 Bộ luật TTHS năm 2015). Trường hợp chứng cứ thu thập được không có lợi cho người phạm tội, thậm chí có thể là chứng cứ kết tội, thì với nghĩa vụ “phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án”, người bào chữa sẽ trở thành người cung cấp chứng cứ bất lợi đó - điều khó có thể chấp nhận với tư cách là người bào chữa. Do đó, chúng tôi cho rằng nên sửa đổi quy định này với sự thay đổi cụm từ “phải kịp thời giao” thành “có thể giao”: “Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa có thể giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án” (Điều 81). Bên cạnh đó, việc quy định người bào chữa “quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu
139
điện tử liên quan đến việc bào chữa”; có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập trong trường hợp họ không thể thu thập được cũng chưa thực sự khả thi. Quy định này mới chỉ hàm ý quyền của người bào chữa mà không thể hiện được trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Quy định trên không có cơ sở bảo đảm cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ thực hiện và thực hiện có trách nhiệm vấn đề này. Do đó, đề nghị bổ sung thêm nội dung trách nhiệm hợp tác, hỗ trợ thu thập chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, nhất là của người tiến hành tố tụng theo yêu cầu của người bào chữa khi thuộc các trường hợp luật định, với quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp, thời hạn và nghĩa vụ thông báo về kết quả thu thập chứng cứ cho người bào chữa biết. Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ do các lý do khách quan, bất khả kháng cũng phải trả lời bằng văn bản cho người đã yêu cầu.
+ Hoàn thiện quy định về Bản luận tội của KSV:
Bản luận tội là căn cứ quan trọng để bên buộc tội (KSV) trình bày, lập luận, khẳng định quan điểm buộc tội của VKS; đồng thời, cũng là căn cứ để bị cáo, người bào chữa đưa ra ý kiến phản bác đối với VKS. Trên cơ sở tranh tụng và dựa vào kết quả tranh tụng, Tòa án sẽ ban hành các phán quyết. Với ý nghĩa quan trọng đó, Bản luận tội của KSV phải đáp ứng những yêu cầu nhất định, trong đó phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Những nội dung của Bản luận tội phải trình bày được đầy đủ, toàn diện, khách quan về các chứng cứ (bao gồm cả chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội); tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, để có thể trình bày Bản luận tội một cách rõ ràng, khách quan, bám sát diễn biến của phiên tòa, kịp thời điều chỉnh Bản luận tội cho phù hợp với các tình tiết, vấn đề mới phát hiện, được đánh giá, xác minh ngay tại phiên tòa, thể hiện tính công minh trong việc buộc tội thì
140
KSV không phải chỉ dựa vào dự thảo Bản luận tội trước khi mở phiên tòa mà phải có sự điều chỉnh để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Bản luận tội. Điều này đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định để KSV hoặc các KSV trao đổi, thảo luận, thống nhất trước khi trình bày chính thức tại phiên tòa, thậm chí cần có sự báo cáo với lãnh đạo VKS. Quy định pháp luật hiện hành chưa đề cập đến vấn đề này. Do đó, cần bổ sung quy định về việc đề nghị tạm ngừng phiên tòa để KSV thống nhất về Bản luận tội trước khi công bố. Trên thực tế, KSV đã đề nghị tạm dừng phiên tòa để thực hiện vấn đề này. Điều này giúp KSV bổ sung, hoàn thiện đề cương luận tội; tránh tình trạng “Bản luận tội bỏ túi”, chưa được cập nhật đầy đủ, trình bày logic thông qua quá trình xét hỏi, điều tra công khai các chứng cứ, tình tiết của vụ án tại phiên tòa.
Ngoài ra, hoàn thiện quy định của pháp luật về TTHS có liên quan trực tiếp tới nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV cần quan tâm tới các vấn đề như: Quy định chính thức về mô hình TTHS ở Việt Nam, làm cơ sở để hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng cơ quan, chức danh trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa cũng như trong TTHS; quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các bên trong tranh tụng, đặc biệt là quy định về quyền của chủ thể này phải gắn liền và tương xứng với trách nhiệm của chủ thể đối tụng; tăng cường vai trò của nhân dân, thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc tự mình giám sát hoạt động tranh tụng tại phiên tòa; quy định cụ thể về tổ chức phiên tòa trực tuyến; hướng dẫn về thực hiện nhiệm vụ tranh tụng của KSV tại phiên tòa trực tuyến; quy định về các biện pháp chế tài đối với những chủ thể tiến hành tố tụng tại phiên tòa mà không thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả hoạt động tranh tụng, gây ảnh hưởng tới uy tín của ngành Tòa án và Kiểm sát…
4.2.1.3. Xây dựng và nâng cao văn hóa tranh tụng cho các chủ thể
“Văn hóa pháp lý thể hiện sự hiểu biết pháp luật, trình độ tư duy pháp lý và mức độ hiện thực hóa các giá trị pháp lý thông qua hành vi của con người” [109]. Văn hóa pháp lý được hình thành trên nền tảng ý thức pháp luật, nhận thức về các giá trị của pháp luật; được thể hiện trong đời sống pháp lý thông qua quá trình thực hiện pháp luật của các loại chủ thể pháp luật. Văn hóa pháp lý là một bộ phận trọng yếu của đời sống tinh thần xã hội; định hướng hành vi pháp lý theo chân, thiện, mĩ;