Nguyên Nhân Của Những Thành Tựu Và Hạn Chế Trên

học vấn của NNL ở khu vực nông thôn thấp, bởi vậy rất khó khăn trong việc đào tạo nghề để giải quyết công ăn việc làm cho họ.

Thứ ba, trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL còn thấp, lao động thiếu việc làm còn nhiều. Chất lượng đào tạo không chính quy, công tác hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông ở các trường, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp chưa được nâng cao. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn ít, cơ cấu lao động được đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế chủ yếu của tỉnh chưa phù hợp.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ các ngành tuy có nhiều tiến bộ, trình độ chuyên môn được nâng lên nhưng cơ cấu còn bất hợp lý, còn thiếu nhiều cán bộ có trình độ cao ở các tuyến dưới . Thiếu nhiều bác sĩ ở các tuyến huyện và bác sĩ công tác lâu dài ở tuyến xã. Thiếu nhiều giáo viên nhạc, hoạ, công nghệ. Tỷ lệ giáo viên mầm non đạt chuẩn, giáo viên có trình độ thạc sĩ ở các trường THPT, chuyên nghiệp, dạy nghề còn thấp. Cán bộ làm nhiệm vụ phát triển NNL, nhất là ở các cấp xã, phường còn thiếu về số lượng, yếu kém về chất lư- ợng. Nhìn chung đội ngũ cán bộ chưa có bước chuyển biến thực sự rò nét đáp ứng tốt sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển KT - XH của tỉnh.

Thứ năm, nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trình độ tay nghề ch- ưa cao, trình độ tổ chức quản lý, sử dụng cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa hiệu quả, thiếu nhiều cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao. Cơ cấu NNL có trình độ chuyên môn - kỹ thuật trong các ngành công nghiệp cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của các ngành. Chất lượng lao động trong các ngành công nghiệp là không đồng đều. Có những ngành cần tập trung nhiều lực lượng lao động có chuyên môn - kỹ thuật cao như điện tử , cơ khí, có ngành cần lực lượng lao động không ngừng nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của ngành như may, giày da thì thực tế lại chưa đạt được.

2.2.1.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trên

Thực tế chất lượng NNL của Hải Dương có những thành tựu và hạn chế trên do nhiều nguyên nhân.

- Nguyên nhân của các thành tựu:

Thứ nhất, các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp đã có sự quan tâm lớn trong việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Có sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của các cấp uỷ Đảng, chính quyền từ tỉnh tới huyện, xã đối với công tác y tế, giáo dục và đào tạo. Đã ban hành kịp thời nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định và đặc biệt các chương trình, kế hoạch, giải pháp, tạo cơ chế thuận lợi thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về các vấn đề phát triển nguồn lực con người.

Thứ hai, các ngành y tế, giáo dục và đào tạo, văn hoá- thông tin, lao động thương binh- xã hội với chức năng là cơ quan thường trực thực hiện các đề án trong chương trình phát triển NNL đã kịp thời phát hiện những vấn đề trọng tâm cần giải quyết trong từng thời kỳ, chủ động bàn bạc với các ngành liên quan đẻ sớm tham mưu, tổ chức thực hiện; hướng dẫn, kiểm tra chu đáo đối với các địa phương trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách.

Thứ ba, toàn tỉnh đã đẩy mạnh công tác xã hội hoá, huy động sức mạnh tổng hợp toàn xã hội chăm lo phát triển sự nghiệp y tế, giáo dục- đào tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Các quy định mới của tỉnh về đầu tư phát triển các ngành y tế, giáo dục; thu hút ưu đãi, sử dụng nhân tài; phân công phân cấp quản lý cán bộ, cải tiến thi tuyển công chức; giải quyết chế độ cho giáo viên trình độ dưới chuẩn của các cấp học đã được nhân dân đồng tình, hưởng ứng tích cực.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Thứ tư, các cơ quan, xí nghiệp sản xuất kinh doanh đã có sự quan tâm, chú ý tới vấn đề đảm bảo lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của người lao động, góp phần to lớn trong việc thực hiện nâng cao chất lượng NNL của tỉnh.

- Nguyên nhân của những hạn chế:

Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 10

Thứ nhất, nhiều cơ sở, cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến phát triển NNL; nhận thức về nội dung nâng cao chất lượng NNL còn giản đơn, thiếu toàn diện, việc xây dựng kế hoạch còn chưa quan tâm xác định các biện pháp, điều kiện thực hiện. Một số cán bộ hạn chế về năng lực, thiếu năng động trong tham mưu và thực hiện nhiệm vụ. Một số cơ quan, đơn vị chưa thông suốt chủ trương, không chủ động, thậm chí còn gây khó khăn trong việc tiếp nhận thạc sỹ, sinh viên tốt nghiệp đại học hệ chính quy trường công lập đạt loại giỏi, việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng những người có thành tích cao trong công tác cũng như những người có trình độ trên đại học còn hạn chế.

Thứ hai, cơ cấu nền kinh tế của tỉnh hiện nay tuy có sự chuyển dịch đáng kể nhưng Hải Dương vẫn là tỉnh nông nghiệp, chưa có nhiều ngành nghề cho người lao động. Số lao động qua đào tạo không tìm được việc làm còn nhiều dẫn đến việc phát triển NNL cả về nhu cầu đào tạo nghề và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần qua lao động gặp nhiều khó khăn.

Thứ ba, cơ sở vật chất, kinh phí đầu tư cho phát triển NNL những năm gần đây được tăng cường nhưng do những khó khăn chung của tỉnh vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu. Tỷ trọng ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo, y tế có hạn chế, hầu hết chỉ đáp ứng phần chi cho con người, phần chi cho hoạt động chuyên môn còn ít (10-15%)

Thứ tư, một số chế độ, chính sách ban hành chưa đồng bộ hoặc chưa kịp thời với những quy định của Chính phủ như : Nghị định 73/CP về việc xã hội hoá đối với các cơ sở y tế, văn hoá giáo dục, nghị định 10/CP về cơ chế tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, nghị định 95/CP về viện phí, nghị định 204 về tiền lương mới, nghị định 12 về quản lý nhà nước về y tế…dẫn tới chưa có điều kiện thuận lợi để thực hiện, tạo điều kiện phát triển

mạnh các nhân tố cho tăng trưởng NNL của tỉnh. Việc thực hiện chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thể dục, thể thao còn chậm do chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và nội dung của hoạt động này. Hề thống các văn bản về dạy nghề còn thiếu, một số nghề chưa có chương trình dạy nghề chuẩn, chưa có tiêu chuẩn để thẩm định chất lượng dạy nghề.

Thứ năm, trong quá trình CNH, HĐH, việc thực hiện đào tạo, phát huy khả năng chuyên môn - kỹ thuật, nâng cao chất lượng NNL cho ngành công nghiệp nhất là các ngành sản xuất trọng yếu, có lợi thế của tỉnh chưa được quan tâm chú ý tới. Đảng, chính quyền, các doanh nghiệp chưa có chính sách ưu tiên, chế độ ưu đãi thoả đáng trong việc đào tạo, sử dụng nhân lực có trình độ chuyên môn - kỹ thuật cao.

2.2.2. Những vấn đề đặt ra cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Hải Dương trong thời gian tới.

Theo mục tiêu chiến lược của nhà nước, đến năm 2020 nước ta hoàn thành cơ bản CNH, HĐH, trở thành một nước công nghiệp đạt trình độ trung bình tiên tiến so với các nước trên thế giới. Đối với Hải Dương, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh là: “Đoàn kết, đổi mới, tận dụng mọi thời cơ và chủ động tạo ra cơ hội mới, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân chung của cả nước, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015. Như vậy, thời gian tới khi thực hiện quá trình CNH, HĐH sẽ có những đặc điểm thể hiện tính quy luật chúng ta cần quan tâm, đó là: Thời gian tiến hành CNH ngày càng rút ngắn; trình độ KH- CN ngày càng phát triển tiên tiến, hiện đại; yêu cầu phát triển bền vững

trở thành tất yếu trong quá trình CNH, HĐH. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương cũng phải phù hợp với những đặc điểm này. Quá trình CNH, HĐH không thể chỉ bằng tuần tự mà phải “đi tắt, đón đầu” để tiếp thu nhanh kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại nhằm đạt tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, tạo nên hiệu suất mới cho nền kinh tế. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, Hải Dương nói riêng cũng như cả nước nói chung phải chuẩn bị mọi nguồn lực cơ bản trong đó có NNL phù hợp về số lượng, chất lượng và cơ cấu.

Phát triển NNL cũng như phát huy tiềm năng thế mạnh NNL là yếu tố cơ bản có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quá trình phát triển KT - XH. Xét tính phù hợp và thực trạng chất lượng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hải Dương, nhất là NNL cho ngành công nghiệp có thể thấy NNL đang đứng trước những vấn đề đặt ra và cần được giải quyết, đó là:

2.2.2.1. Tình trạng suy dinh dưỡng, sức khoẻ yếu, bệnh tật trong nguồn nhân lực còn nhiều, nguồn nhân lực còn yếu về thể lực.

Nguồn nhân lực của Hải Dương tuy có nhiều tư chất tốt song vẫn ở trong tình trạng yếu về thể lực. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn lớn. Sức khoẻ của lực lượng lao động còn ở mức trung bình và yếu, nguy cơ mắc các bệnh nghề nghiệp tăng. Chính vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của quá trình sản xuất. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản vẫn là do: Lao động thiếu việc làm ổn định còn nhiều, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn cao dẫn đến thu nhập của lao động còn thấp. Nguồn nhân lực chưa được đảm bảo về điều kiện vật chất, đời sống khó khăn. Từ đó đến ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng về mặt thể lực và cả trí lực của NNL.

Vấn đề đặt ra cho tỉnh là cần phải có chiến lược phát triển KT - XH, giải quyết việc làm cho người lao động như thế nào để đảm bảo thu nhập ổn

định, mức sống cho họ, tạo điều kiện cho họ nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Có như vậy NNL mới được nâng lên về mặt chất lượng. Nâng cao chất lượng NNL gắn liền với các mục tiêu phát triển KT- XH. Đó cũng là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của Hải Dương trong thời gian tới.

2.2.2.2. Trình độ văn hoá, chuyên môn - kỹ thuật của nguồn nhân lực còn thấp trong khi nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao ngày càng lớn.

Qua thực tế cho thấy một thực trạng chung về trình độ chuyên môn- kỹ thuật của NNL trong toàn tỉnh còn rất hạn chế. Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn- kỹ thuật cao còn thiếu nhiều nhất là trong các ngành công nghiệp trọng yếu, các ngành có lợi thế mà hiện nay tỉnh đang có sự đầu tư mở rộng phát triển sản xuất.

Giai đoạn từ nay đến năm 2010, giai đoạn 2011- 2015, để thực hiện CNH, HĐH Hải Dương xác định tiếp tục phát triển công nghiệp với tốc độ cao, tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh như : Công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin ; Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ; Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm ; Công nghiệp may, da giày...

Ngành công nghiệp cơ khí, điện tử là ngành công nghiệp nền tảng có vai trò then chốt trong phát triển kinh tế, trong sự nghiệp CNH, HĐH, củng cố an ninh quốc phòng. Tỉnh khẳng định tiếp tục phấn đấu sẽ trở thành một trung tâm cơ khí đóng tàu thuỷ lớn của cả nước, đóng những tàu có trọng tải ngaỳ càng lớn và những tàu chuyên dụng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đối với công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin : đẩy mạnh sản xuất các mạng dây điện, các mạch điện tử sử dụng trong công nghiệp ô tô, các thiết bị điện tử, tin học,

máy văn phòng...Tuy nhiên lực lượng lao động kỹ thuật trong các ngành này còn thiếu nhiều, nhất là kỹ sư công nghệ, công nhân kỹ thuật bậc cao.

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng là ngành được xác định là một trong những ngành sản xuất chủ lực của tỉnh trong thời gian qua. Trong đó sản xuất xi măng, gạch ốp lát, gạch nung tuynen là những sản phẩm có sản lượng lớn. Đây là ngành Hải Dương có tiềm năng phát triển. Sự phát triển ngành công nghiệp này đã có đóng góp lớn cho nguồn thu ngân sách của tỉnh. Lực lượng lao động trong ngành này là 24.164 người (năm 2005). Song lao động phổ thông chiếm phần nhiều, số lao động có trình độ cao ít, đặc biệt là năng lực cán bộ quản lý còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. 10 năm tới, sản xuất vật liệu xây dựng vẫn là ngành có tốc độ phát triển cao, chính vì vậy nó tạo ra một nhu cầu rất lớn về NNL có chất lượng để đáp ứng sự phát triển của ngành.

Chế biến nông, lâm sản và thực phẩm là một trong những ngành công nghiệp có số lượng lớn các cơ sở sản xuất. Năm 2005, ngành có 17.358 cơ sở, chiếm 69,49% tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp trong toàn tỉnh. Sự phát triển của ngành này hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh. Vốn là một tỉnh kinh tế thuần nông là chủ yếu nên sự quan tâm tới ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm của sản xuất nông nghiệp là hết sức đúng đắn. Tuy nhiên, lao động trong ngành có kiến thức sản xuất công nghiệp chế biến thực phẩm thấp, chưa được đào tạo có hệ thống về chuyên môn - kỹ thuật.

Đối với công nghiệp dệt may, da giày cũng là một ngành được phát triển mở rộng về mặt quy mô. Là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho lao động, đặc biệt là lao động khu vực nông thôn . Song lực lượng lao động của ngành này cũng nằm trong tình trạng chung là trình độ chuyên môn- kỹ thuật còn thấp. Đa số lao động được đào tạo tại chỗ, chưa được đào tạo qua chương trình, trường lớp nhất định...

Nhìn chung, với sự phát triển của các ngành sản xuất công nghiệp, hiện nay nhu cầu lao động có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao, thợ lành nghề tại các doanh nghiệp, các khu công nghiệp ngày càng tăng khiến cho hệ đào tạo nghề đã và đang thu hút được đông đảo người học. Số học sinh vào các trường cao đẳng, dạy nghề tuy đã tăng lên nhiều về số lượng nhưng chưa mạnh về chất. Vấn đề này đặt ra cho tỉnh là cần phải có hướng giải quyết nhanh chóng, kịp thời về đào tạo NNL để đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế. Đối với hệ thống đào tạo nghề nghiệp cho NNL cần được quan tâm hơn nữa để chất lượng đào tạo chuyên môn - kỹ thuật được nâng cao.

2.2.2.3. Nguồn nhân lực đang đứng trước yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng phát triển kinh tế của tỉnh, cho nên đòi hỏi phải có sự quản lý phù hợp của các cấp, các ngành để được nâng lên về mặt chất lượng.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động là nội dung cơ bản của CNH, HĐH. Quá trình hình thành cơ cấu lao động mới đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH được thể hiện trên các mặt : Cơ cấu lao động theo các ngành, lĩnh vực kinh tế qua đào tạo được nâng lên ; Cơ cấu lao động trong nông nghiệp giảm, tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ ; Tỷ trọng lao động chân tay giảm, tăng dần tỷ trọng lao động chất xám...

Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động phải đưa đến cuộc cách mạng về lực lượng lao động, hình thành phương pháp, năng lực, trình độ, thói quen lao động mới cho người lao động. Điều đó đòi hỏi trước hết các cấp uỷ Đảng, các cơ quan hữu quan trong quản lý, sử dụng NNL cần phải có cơ chế quản lý thông qua các chính sách cho NNL đảm bảo việc phát huy tính tích cực của con người trong việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 28/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí