Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam - 2


trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam. Từ đó củng cố các trường phái lý thuyết và các quan điểm về vai trò của cấu trúc sở hữu đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.

Về thực tiễn, đề tài cung cấp cung cấp cái nhìn cụ thể về tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam. Các kết quả từ đề tài làm cơ sở tham khảo cho các nhà làm chính sách cũng như các nhà quản trị đưa ra các chính sách và các quyết định tốt để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam.

1.5. Kết cấu dự kiến của đề tài Chương 1: Giới thiệu đề tài

Chương 2: Tổng quan về cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động kinh doanh

của NHTM.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách

Kết luận chương 1

Qua chương 1, tác giả đã giới thiệu khái quát về nội dung nghiên cứu của đề tài này. Đặc biệt là 4 câu hỏi nghiên cứu đặt ra cho đề tài. Sau đây tác giả sẽ thực hiện đề tài bằng việc thông qua tìm lời giải cho các câu hỏi nghiên cứu trong các chương tiếp theo.

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM

2.1. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

2.1.1. Hoạt động kinh doanh

Như ta đã biết, sự ra đời và phát triển của NHTM gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường trong thời đại toàn cầu hóa, NHTM đã biến đổi nhanh chóng từ những tổ chức kinh doanh giản đơn, sơ khai ban đầu nay thành những NHTM hiện đại, những tập đoàn tài chính khổng lồ, đa quốc gia. Có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM, tuy nhiên về mặt tổng quan thì NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tư trong nền kinh tế. Nói cách khác thì NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, huy động vốn từ các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, sau đó thực hiện cho vay hoặc đầu tư vào các tài sản có khả năng sinh lời khác, đồng thời thực hiện cung cấp nhiều dịch vụ tài chính, tín dụng, thanh toán cho các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.

Từ định nghĩa trên, có thể thấy NHTM là một tổ chức tài chính đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Vai trò của NHTM này có thể tóm lược trên các khía cạnh sau:

Vai trò là trung gian tài chính, NHTM thực hiện chức năng chuyển các khoản tiết kiệm thành các khoản tín dụng cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đồng thời, NHTM là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường trái phiếu do chính quyền phát hành để tạo nguồn đầu tư cho các dự án công cộng.

Vai trò thanh toán, NHTM thực hiện việc thanh toán tiền cho các bên mua bán hàng hóa và dịch vụ qua việc phát hành và thanh toán séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử...

Vai trò người bảo lãnh, NHTM phát hành chứng thư cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính, thanh toán cho các bên tham gia hợp đồng kinh doanh.

Vai trò đại lý, NHTM thực hiện chức năng quản lý và bảo lãnh phát hành hoặc mua lại chứng khoán cho các đối tác.

Cuối cùng là vai trò thực thi chính sách của nhà nước, NHTM là một kênh quan trọng để thực thi chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác của nhà nước nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện các mục tiêu cộng đồng.

2.1.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

2.1.2.1. Khái niệm

Hiệu quả là một thuật ngữ được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Mỗi lĩnh vực khác nhau, khi xem xét ở các góc độ khác nhau, mục tiêu nghiên cứu khác nhau sẽ có các khái niệm về hiệu quả khác nhau. Chẳng hạn trong lĩnh vực kinh tế, hiệu quả thường được nhìn nhận như là lợi nhuận thu được; Trong lĩnh vực lĩnh vực kỹ thuật hiệu quả thường gắn với khả năng tạo ra sản phẩm và mức hao tổn các yếu tố đầu vào; Còn trong lĩnh vực xã hội, hiệu quả là các chỉ số về phát triển con người và xã hội, thường được nhìn nhận là tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ biết chữ, công bằng xã hội… Trong giới hạn và mục tiêu nghiên cứu, đề tài này chỉ xem xét các quan điểm về hiệu quả ở góc độ kinh tế.

Theo Ngân hàng trung ương châu Âu (European Central Bank), hiệu quả là “khả năng tạo ra lợi nhuận bền vững, lợi nhuận thu được trước tiên được dùng để dự phòng cho các khoản lỗ bất ngờ và tăng cường vị thế vốn, cải thiện lợi nhuận thu được trong tương lai thông qua đầu tư và các khoản lợi nhuận giữ lại”.

Theo Draft (2008) thì hiệu quả hoạt động kinh doanh là sự chuyển đổi các yếu tố đầu vào có tính chất khan hiếm thành lợi nhuận cao hơn hoặc giảm thiểu chi phí so với các đối thủ cạnh tranh.

Theo Farrell (1957) thì hiệu quả thể hiện qua mối tương quan giữa các biến số

đầu ra so với các biến số đầu vào sử dụng để tạo ra nó.

Theo tự điển “Toán kinh tế, thống kê, kinh tế lượng Anh – Việt” của Nguyễn Khắc Minh, hiệu quả kinh tế là “mối tương quan giữa các yếu tố đầu vào khan hiếm với đầu ra hàng hóa và dịch vụ”, “khái niệm hiệu quả dùng để xem xét các tài nguyên được các thị trường phân phối tốt như thế nào”.

Nhìn chung, có nhiều quan điểm về hiệu quả khác nhau, nhưng chung quy lại hiệu quả hoạt động kinh doanh là mức độ thành công mà các nhà đầu tư thu được trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo các yếu tố đầu ra, đáp ứng mục tiêu đã định trước. Theo đó, xét ở góc độ kinh tế, hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM là lợi nhuận thu được tương ứng với tiền vốn đã bỏ ra đầu tư.

2.1.2.2. Tiêu chí đánh giá

Do có nhiều quan điểm về hiệu quả nên cũng có nhiều phương pháp đánh giá hiệu quả khác nhau. Hiện nay trên thế giới có hai phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM là phương pháp dựa vào các chỉ tiêu tài chính và phương pháp dựa vào mô hình. Xuất phát từ mô hình nghiên cứu, luận văn này chú trọng xem xét phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM dựa vào các chỉ tiêu tài chính.

- Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh dựa vào các chỉ tiêu tài chính

Theo Trần Văn Thơ và cộng sự (2007), các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh dựa vào chỉ tiêu tài chính có thể chia làm hai nhóm, đó là hiệu quả kinh doanh tương đối và hiệu quả kinh doanh tuyệt đối:

 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tương đối có thể được thể hiện dưới dạng tĩnh hoặc dưới dạng động.

- Chỉ tiêu hiệu quả tương đối dạng tĩnh được xác định theo công thức:

Hiệu quả hoạt động

kinh doanh

=

Kết quả kinh doanh

Chi phí bỏ ra để đạt được kết quả

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 55 trang tài liệu này.

Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

Hoặc

Hiệu quả hoạt động kinh

doanh

=

Chi phí bỏ ra để đạt được kết quả

Kết quả kinh doanh

- Chỉ tiêu hiệu quả tương đối dạng động được xác định theo công thức:

Hiệu quả hoạt động kinh

doanh

=

Mức tăng kết quả kinh doanh

Mức tăng chi phí

Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tương đối thuận lợi cho việc so sánh theo thời kỳ và quy mô khác nhau như cho phép so sánh hiệu quả kinh doanh giữa NHTM có quy mô tổng tài sản, vốn chủ sở hữu khác nhau, hay so sánh các chúng trong các khoảng thời gian khác nhau của cùng một NHTM.

 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tuyệt đối của NHTM được xác định theo công thức tổng quát sau:

Hiệu quả hoạt động kinh

doanh

=

Kết quả kinh doanh

-

Chi phí bỏ ra để đạt

được kết quả đó

Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần – Giá vốn hàng bán

Lợi nhuận hoạt động = Tổng lợi nhuận gộp – Tổng chi phí hoạt động

Lợi nhuận ròng = Lợi nhuận hoạt động – Thuế - Lãi

Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tuyệt đối dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM theo cả chiều sâu và chiều rộng. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tuyệt đối thường được sử dụng là lợi nhuận gộp, lợi nhuận hoạt động và lợi nhuận ròng. Tuy nhiên, nó lại không dùng để thực hiện so sánh giữa các NHTM có quy mô vốn, tài sản khác nhau được. Ví dụ, các NHTM có tổng tài sản, vốn chủ sở hữu lớn thì lợi nhuận lớn hơn các NHTM có tổng tài sản và vốn chủ sở hữu nhỏ hơn. Dựa vào điều này, chúng ta không thể cho rằng các NHTM có tổng tài sản và vồn chủ sở hữu lớn hơn có hiệu quả hoạt động kinh doanh cao hơn các NHTM có tổng tài sản, vốn chủ sở hữu nhỏ hơn được. Như vậy, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tuyệt đối không phản ánh khả năng sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các yếu tố đầu vào.

Tóm lại, cũng như quan điểm về hiệu quả, tiêu chí đánh giá hiệu quả cũng rất đa dạng và tùy thuộc vào các góc nhìn, yêu cầu, mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Trong bài luận này, tác giả sử dụng số liệu của nhiều NHTM có quy mô và đặc điểm khác nhau để phân tích. Do đó, để các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh có thể so sánh được giữa các NHTM, bài luận chỉ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh ở nhóm tương đối.

Phần dưới đây sẽ trình bày chi tiết về một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh phổ biến thuộc nhóm tương đối dạng tĩnh, thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đồng thời, các chỉ tiêu này cũng là các thước đo hiệu quả hoạt động kinh doanh sẽ được sử dụng trong bài luận này.

 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời thuộc nhóm tương đối dạng tĩnh

Các chỉ tiêu này đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng một đơn vị vốn kinh doanh. Trên thế giới thường sử dụng các chỉ tiêu sau: tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, tỷ suất sinh lợi trên tổng vốn chủ sở hữu, tỷ suất thu nhập từ lãi trên tổng tài

sản, tỷ suất thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, tỷ số thu nhập trên mỗi cổ phiếu. Cách tính toán các chỉ tiêu này được trình bày cụ thể dưới đây.

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)

=

Lợi nhuận sau thuế

 

Tổng tài sản

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA – Return On Assetes) là chỉ tiêu quan trọng được dùng rộng rãi để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. ROA biểu hiện khả năng tạo ra lợi nhuận của nhà quản trị khi dùng một đơn vị giá trị tài sản. Nó phản ánh năng lực của nhà quản trị NHTM trong việc sử dụng tài sản chuyển thành lợi nhuận sau thuế.

Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE)

=

Lợi nhuận sau thuế

 

Vốn chủ sở hữu

Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE – Return On Equity) là một chỉ tiêu quan trọng khác đánh giá khả năng thu được lợi nhuận cho cổ đông của NHTM. Nó biểu hiện lợi tức mà cổ đông thu được trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư vào NHTM. ROE cũng được dùng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.

Tỷ lệ thu nhập lãi

trên tổng tài sản

=

Tổng thu nhập lãi – Tổng chi phí lãi

Tổng tài sản (hay vốn huy động)

Tỷ lệ thu nhập ngoài

lãi trên tổng tài sản

=

Tổng thu nhập ngoài lãi – Tổng chi phí ngoài lãi

Tổng tài sản

Thu nhập sau thuế

trên mỗi cổ phiếu

=

Lợi nhuận sau thuế

Tổng số cổ phiếu thường hiện hành

Tỷ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản biểu hiện khả năng của nhà quản trị NHTM trong việc tạo ra lợi nhuận từ lãi khi khi sử dụng một đơn vị giá trị tài sản huy động được (hay vốn huy động). Còn và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản phản ánh năng lực của nhà quản trị NHTM trong việc tạo ra lợi nhuận ngoài lãi (thu phí dịch vụ) khi sử dụng một đơn vị giá tri tài sản. Thu nhập sau thuế trên mỗi cổ phiếu phản ánh lợi nhuận mà cổ đông thu được khi đầu tư một cổ phiếu tại NHTM.

Ngoài ra, trong phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM, các nhà quản trị NHTM còn phân tích mối quan hệ giữa chỉ số tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu. Một NHTM có thể có tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản thấp nhưng vẫn có thể đạt được tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu cao bằng việc sử dụng đòn bẩy tài chính lớn.

 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quản quản lý thuộc nhóm tương đối

Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các nhà quản trị NHTM thường nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, úng dụng công nghệ để tăng năng suất lao động. Do đó hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM còn được phản ánh bởi các chỉ tiêu sau:

Hiệu quả đầu tư của vốn

huy động (LOD)

=

Tổng dư nợ

Vốn huy động

Chỉ tiêu LOD phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động của nhà quản lý NHTM.

Khả năng hút vốn từ nền

kinh tế (LOE)

=

Tổng dư nợ

Vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu LOE phản ánh khả năng hút vốn từ nền kinh tế cũng như khả năng sử dụng vốn chủ sở hữu của nhà quản lý NHTM.

Khả năng bù đắp chi phí

=

Tổng chi cho hoạt động

Tổng thu nhập từ hoạt động

Hiệu quả sử dụng nhân lực

=

Tổng thu nhập từ hoạt động

Tổng nhân viên

Hiệu quả sử dụng tài sản

=

Tổng thu nhập từ hoạt động

Tổng tài sản

Như vậy, để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và đem lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh cho mình, các nhà quản trị NHTM cần chú ý phân tích tổng họp và kiểm soát hợp lý các chỉ tiêu như: tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, hiệu quả đầu tư của vốn huy động, hiệu quả đầu tư của vốn chủ sở hữu, khả năng bù đắp chi phí, hiệu quả sử dụng nhân lực, hiệu quả sử dụng tài sản.

Để phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM, trên thế giới hiện nay vẫn dùng phổ biến các chỉ tiêu tài chính vì chúng đơn giản và dễ hiểu trong phân tích. Tuy nhiên chính mức độ đơn giản của nó đã trở thành vấn đề khó khăn cho các nhà quản trị NHTM khi muốn nhìn tổng thể tình hình hoạt động kinh doanh của NHTM. Vì mỗi chỉ tiêu chỉ phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa hai biến số cụ thể mà không có chỉ số nào phản ánh tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh một NHTM. Chính vì vậy, khi phân tích tổng quát thực trạng một NHTM cần phải xem xét phân tích một loạt các chỉ tiêu để có cái nhìn toàn diện về hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.

- Phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh dựa vào mô hình:

Là việc phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM dựa

vào các mô hình được xây dựng trước. Mô hình thường được dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM hiện nay là DEA (Data Envelopment Alnalysis). DEA được xây dựng đầu tiên bởi Charnes et al (1978). Nghiên cứu này được kế thừa từ nghiên cứu của Farrell (1957). Theo đó, DEA phân tích hiệu quả dựa trên đường bao số liệu hay đường giới hạn hiệu quả tổng thể được xây dựng dựa trên các yếu tố đầu vào và đầu ra, từ đó xác định được mức độ đạt hiệu quả của từng NHTM so với NHTM khác và so với tổng thể. Đề tài chỉ phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh dựa trên các chỉ tiêu tài chính nên không nghiên cứu sâu thêm về phương pháp này.

2.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM

Hiệu quả hoạt động kinh doanh là mục tiêu của cổ đông và các nhà quản trị NHTM, nó quyết định định sự tồn tại phát triển hay phá sản đối với NHTM. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng chính là tăng cường đảm bảo các điều kiện cho NHTM hoạt động và phát triển.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM, nhà quản trị NHTM cần phải xác định được các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM nhằm hạn chế được các tác động tiêu cực, phát huy các tác động tích cực. Theo Nguyễn Việt Hùng (2008), các nhân tố này có thể được chia làm hai nhóm: nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên trong, tùy theo điều kiện cụ thể của từng NHTM mà hai nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động của chính các NHTM.

- Nhóm yếu tố bên ngoài

 Hệ thống pháp luật

Hệ thống pháp luật chặt chẽ, minh bạch, đồng bộ, đầy đủ sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và ngược lại. Thực tiễn trên thế giới đã minh chứng được tầm quan

trọng của hệ thống pháp luật đối với sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Nếu hệ thống pháp luật không đầy đủ, minh bạch, đồng bộ, chặt sẽ không kích thích và thậm chí là cản trở sự quá trình hoạt động kinh doanh, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Việt Nam có nền kinh tế mới nổi, hệ thống luật còn chưa chặt chẽ, đầy đủ, đồng bộ là một trở ngại đối với hoạt động kinh doanh của NHTM.

 Môi trường chính trị

NHTM cũng là một tổ chức kinh doanh, do vậy những biến động của môi trường chính trị sẽ có tác động đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu môi trường chính trị tốt sẽ tác động tích cực đến đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của NHTM tốt hơn. Ngược lại, khi môi trường chính trị bất ổn sẽ gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh của NHTM.

 Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế được thể hiện một cách tổng quát nhất qua hai chỉ tiêu là tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng GDP) và lạm phát (INF). Hai chỉ tiêu này có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và của NHTM nói riêng.

Khi kinh tế tăng trưởng (GDP tăng trưởng), ổn định, các nhà đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh làm cho cầu vay vốn tăng, tăng lãi suất, NHTM có điều kiện thuận lợi tăng trưởng tín dụng và giảm nợ xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngược lại, khi kinh tế suy thoái, như nhu cầu vay vốn giảm, nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.

Lạm phát (INF) có liên quan mật thiết với lãi suất trên thị trường và có tác động đến việc tăng trưởng kinh tế. Khi lạm phát tăng, đầu tư sẽ được mở rộng, lãi suất sẽ tăng làm cho hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng theo. Ngược lại, khi lạm phát giảm, sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh giảm.

Vì hai chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP) và lạm phát (INF) phản ánh rõ nét,

bao quát nhất môi trường kinh tế và có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nên tác giả chọn làm hai biến soát vĩ mô trong mô hính nghiên cứu của đề tài này.

- Nhóm yếu tố bên trong

Các yếu tố bên trong là các yếu tố chủ quan của chính trong NHTM như trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực tài chính, cấu trúc sở hữu, năng lực điều hành…

 Trình độ công nghệ

Trình độ công nghệ phản ánh việc đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động kinh doanh của NHTM. Ngày nay, khoa học công nghệ được ứng dụng sâu rộng trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm dịch vụ. Các NHTM muốn đứng vững và phát triển thì không thể là ngoại lệ, đứng ngoài cu hướng tất yếu này. Việc đầu tư ứng dụng công nghệ mới sẽ giúp NHTM nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao năng suất lao động để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh để đứng vững trên thị trường.

 Chất lượng nguồn nhân lực

Con người luôn đóng vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động xã hội nói chung và trong hoạt động kinh doanh của NHTM nói riêng. Chất lượng nguồn nhân lực quyết định đến hiệu quả kinh doanh và sự sống còn của NHTM. Nhu cầu của con người là vô hạn, yêu cầu của khách hàng không giới hạn nên đòi hỏi NHTM phải nâng cao chất lượng và tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới. Vì vậy NHTM phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tạo tiền đề nâng cao chất lượng và tạo ra sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Việc sử dụng nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, giỏi về chuyên môn sẽ giúp cho NHTM tạo lập được những khách hàng trung thành, ngăn ngừa được những rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư, và đây cũng là nhân tố giúp NHTM giảm

thiểu được các chi phí hoạt động khi tăng năng suất lao động. Phát triển nguồn nhân lực luôn đi kèm với phát triển trình độ công nghệ.

 Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của một NHTM thường được biểu hiện trước hết là nguồn vốn tự có, vì vốn tự có là biểu hiện sức mạnh tài chính của một NHTM. Tiềm lực vốn tự có tác động đến khả năng hoạt động kinh doanh của NHTM như: khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế, khả năng cho vay, đầu tư tài chính cũng như đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao trình độ công nghệ, cuối cùng nó tạo điều kiện cho việc tăng thu, giảm chi phí, giảm rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM.

 Trình độ quản trị

Trình độ quản trị là nhân tố đặc biệt quan trọng tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Trình độ quản trị biểu hiện trước tiên là cơ cấu bộ máy điều hành, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của đội ngũ quản lý, khả năng ứng phó với sự biến động của môi trường kinh doanh bên ngoài cũng như bên trong NHTM. Trình độ quản trị có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu khả năng tiết kiệm chi phí hoạt động, khả năng sử dụng các yếu tố đầu vào có sẵn để tạo ra lợi nhuận cao nhất. Có nhiều chỉ tiêu phản ánh trính độ quản trị của một NHTM nhưng theo tác giả hai chỉ tiêu khả năng hút vốn từ nền kinh tế (LOE) và hiệu quả đầu tư vốn huy động (LOD) là hai chỉ số phản ánh tương đối rõ nét nhất.

Khả năng hút vốn từ nền kinh tế (LOE) biểu hiện số tiền dư nợ cho vay tương ứng với một đơn vị vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng huy động nguồn vốn từ nền kinh tế để thực hiện kinh doanh. Hay nói cách khác đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng đòn bảy tài chính của nhà quản trị NHTM. Khi chỉ số này cao sẽ giúp cho NHTM thu lãi từ cho vay nhiều hơn nhưng đồng thời cũng làm gia tăng chi phí huy động vốn và chi phí rủi ro cao hơn. Điều này có khả năng làm tăng hoặc giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.

Hiệu quả đầu tư vốn huy động (LOD) biểu hiện số tiền dư nợ cho vay tương ứng với một đơn vị vốn huy động hay là tỷ lệ dư nợ cho vay và huy động vốn. LOD biểu hiện khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động. Khi LOD cao phản ánh NHTM có dư nợ cho vay cao ứng với nguồn vốn huy động thấp. Điều này sẽ dẫn đến việc NHTM thu được lãi cho vay cao ứng với chi phí huy động vốn thấp.

Vì hai chỉ tiêu LOE và LOD phản ánh khá rõ nét khả năng của nhà quản trị trong NHTM nên tác giả chọn làm hai biến kiểm soát nội tại trong mô hình nghiên cứu của đề tài này.

 Cấu trúc sở hữu

Thông qua tỷ lệ nắm giữ cổ phần, các loại hình cổ đông (cổ đông nhà nước, cổ đông nước ngoài, cổ đông thể nhân) tác động đến nhân sự cũng như chất lượng đội ngũ quản trị điều hành NHTM theo nguyên tắc đối vốn. Từ đó tác động đến mọi mặt hoạt động và mục tiêu của NHTM. Điều này nhất định sẽ tác động đến hiệu quả kinh doanh của NHTM.

2.2. Cấu trúc sở hữu của NHTM

2.2.1. Khái niệm sở hữu

Theo quan điểm của Mác xít khái niệm gốc của sở hữu là “Sự chiếm hữu”. Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng – đối tượng của sự chiếm hữu. Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con người với nhau về vật dụng. Đó là quyền sở hữu của một chủ thể (cá nhân hoặc tổ chức) đối với vật chiếm hữu được xã hội thừa nhận và bảo vệ.

Theo Điều 158 Luật dân sự, “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.

Như vậy trong bài luận này, sở hữu có thể được hiểu là việc cổ đông (tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước) nắm giữ phần cổ phần (vốn chủ sở hữu) tại NHTM được Pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Mỗi cổ đông có thể nắm giữ cổ phần tại một

hoặc nhiều NHTM và ngược lại một NHTM có thể có nhiều cổ đông nắm giữ cổ phần.

Căn cứ vào đặc điểm, bài luận này phân chia cổ đông thành các loại sau: Cổ đông Nhà nước, cổ đông nước ngoài, cổ đông thể nhân, cổ đông Pháp nhân. Tương ứng với một loại hình cổ đông là một loại hình sở hữu, đó là: Sở hữu Nhà nước, Sở hữu nước ngoài, sở hữu thể nhân, sở hữu tổ chức.

Thông qua tỷ lệ cổ phần nắm giữ được, các cổ đông tác động vào quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM theo nguyên tắc đối vốn.

2.2.2. Khái niệm cấu trúc sở hữu

Theo Gursory & Aydogan (2002), cấu trúc sở hữu được thể hiện qua hai đặc tính là sở hữu tập trung và sở hữu hỗn hợp.

Theo Pedersen & Thomsen (1999), quyền sở hữu tập trung là quyền sở hữu của nhà đầu tư nắm giữ được nhiều cổ phần nhất và gánh chịu, tác động đến các chi phí cho hoạt động giám sát và rủi ro. Theo Wen (2010), xem xét mức độ sở hữu tập trung tại NHTM tư nhân và nhà nước ở Trung Quốc là phần trăm sở hữu của những cổ đông lớn nhất.

Theo Kiruri (2013), Wen (2010), Anstoniadis (2010), quyền sở hữu hỗn hợp là tỷ lệ phần trăm sở hữu cổ phần của những nhóm cổ đông có những đặc điểm khác nhau như sở hữu tư nhân, sở hữu nước ngoài, sở hữu nhà nước.

Như vậy, cấu trúc sở hữu có thể hiểu là cơ cấu các loại cổ đông nắm giữ cổ phần trong NHTM. Nó phản ánh các loại cổ đông và tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của từng loại cổ đông trong cùng một NHTM.

2.2.3. Các loại hình sở hữu

Trong bài luận văn này, tác giả dựa vào đặc điểm của cổ đông để chia thành các loại hình sở hữu sau: Sở hữu Nhà nước; Sở hữu thể nhân; Sở hữu Pháp nhân; Sở

Xem tất cả 55 trang.

Ngày đăng: 08/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí