Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 23

thuế và bảo hiểm, lương người lao động lên đến hàng chục tỉ đồng, khi người ĐDTPL bỏ trốn ra nước ngoài dẫn tới khó khăn khi xử lý các hoạt động tiếp theo. Rất nhiều doanh nghiệp sẽ muốn bảo mật thông tin về các khoản nợ thuế, nợ bảo hiểm hay trách nhiệm pháp lý của họ khi vướng vào các sai phạm nhằm giữ uy tín kinh doanh. Tuy nhiên, việc giữ bí mật thông tin trên cần được cân bằng với việc hỗ trợ hiệu quả kinh tế và tăng trưởng cũng như yêu cầu về quản lý nhà nước, tạo yên tâm cho đối tác tham gia giao dịch cùng họ. Khi công bố khoản nợ thuế có thể tác động đáng kể đến quyết định giao dịch của các đối tác với doanh nghiệp nợ thuế. Mặt khác, việc duy trì nợ thuế liên tục tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh với những doanh nghiệp tuân thủ nghĩa vụ này bởi quỹ tài chính dư giả hơn. Đây cũng là thông tin cần thiết cho các tổ chức tín dụng trước khi quyết định cung cấp gói tín dụng cho các công ty này vì bao gồm thông tin nợ thuế trong kiểm tra tín dụng sẽ cung cấp bức tranh toàn diện hơn về tổng vị trí của doanh nghiệp. Đồng thời là biện pháp thúc đẩy trách nhiệm đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam nhằm nâng cao uy tín của mình.

Các thông tin cần công bố định kỳ như là thông tin mở có sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký doanh nghiệp và cơ quan thuế, cơ quan bảo hiểm bao gồm: khoản nợ thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền bảo hiểm thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động. Bên cạnh các thông tin về thuế, các thông tin về người đại diện cần được công bố trên Công thông tin này bao gồm:

+ Người đại diện pháp luật của doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ hành động có thiện chí, trung thực, vì lợi ích doanh nghiệp.

+ Người đại diện pháp luật cung cấp thông tin sai hoặc cố ý giữ lại thông tin về doanh nghiệp không tiết lộ gây thiệt hại đến quyền lợi ích công cộng.

+ Người đại diện theo pháp luật vi phạm bản án, quyết định của tòa án hoặc lệnh cấm không được thành lập, quản lý một công ty theo luật định.

+ Hành vi vi phạm liên quan đến trường hợp công ty được tái cấu trúc từ các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Các thông tin liên quan đến các trường hợp trên được thể hiện chi tiết, đầy đủ với tên của người đại diện, hành vi vi phạm theo bản án có hiệu lực pháp luật, trách nhiệm hình sự hoặc tiền phạt và chi phí mà người đại diện phải gánh chịu.

Việc sử dụng Cổng thông tin trong hoạt động nâng cao nhận thức pháp luật, hướng dẫn doanh nghiệp và người dùng tuân thủ nghĩa vụ theo luật định là biện pháp được coi trọng. Điều này xuất phát từ nguyên tắc trong thực thi pháp luật là: cần sử dụng các công cụ nhằm đảm bảo, phát huy sự tuân thủ phù hợp nhất và hiệu quả về chi phí có sẵn cho đông đảo doanh nghiệp. Các chế tài được thiết lập như là nấc cuối cùng trong lộ trình tuân thủ của doanh nghiệp và người đại diện, theo đó, họ phải gánh chịu hậu quả pháp lý nghiêm trọng đối với việc không tuân thủ, bao gồm cả truy tố trách nhiệm hình sự. Các công cụ tuân thủ như thông tin trang web, đường dây yêu cầu qua điện thoại miễn phí, hội thảo định kỳ về các vấn đề pháp lý liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, thư nhắc nhở sẽ được sử dụng phổ biến để nâng cao chất lượng hoạt động tuân thủ pháp luật doanh nghiệp. Mặt khác, khi thông tin được công bố rộng rãi là tiền đề cho cơ chế điều chỉnh xã hội nhằm thúc đẩy sự thực hiện pháp luật của doanh nghiệp một cách chủ động hơn. Đó là sức ép từ dư luận xã hội, đạo đức đối với uy tín, hoạt động của doanh nghiệp nói chung cũng như người ĐDTPL của doanh nghiệp nói riêng.

d. Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật doanh nghiệp liên quan đến đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Luật doanh nghiệp năm 2020 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 bước đầu đã được triển khai thực hiện. Trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để hoạt động áp dụng liên quan đến quy định của pháp luật về vấn đề này được thuận lợi, theo quan điểm tác giả cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản như:

- Xác định thẩm quyền của cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh chi tiết hơn với trình tự kiểm soát hành chính đối với các hành vi vi phạm tăng dần theo mức độ nghiệm trọng của người ĐDTPL. Cụ thể, theo mức độ tăng dần, chế tài đối với người đại diện và doanh nghiệp nên được thực hiện theo các cấp độ: cảnh báo chính thức của cơ quan quản lý nhà nước đối với người đại diện và doanh nghiệp; thông báo vi phạm của cá nhân người đại diện hoặc doanh nghiệp; đình chỉ hoặc hủy bỏ đăng ký của một công ty hoặc rút giấy phép hành nghề, cấm người đại diện quản lý, điều hành công ty và cao nhất là gửi hồ sơ đề nghị cơ quan điều tra truy tố tội danh hình sự. Với hai mức độ cấm đảm nhận chức vụ

quản lý doanh nghiệp và quyết định truy tố đã được quy định trong LPS và Luật Hình sự. Lúc này, vai trò của cơ quan đăng ký kinh doanh thể hiện ở vai trò kết nối và công bố thông tin rộng rãi trên kênh thông tin chính thức của Nhà nước.

Rò ràng, ở Việt Nam, việc các cơ quan quản lý nhà nước mới chỉ quy định về trách nhiệm hành chính của người ĐDTPL dừng ở hình phạt tiền, rút giấy phép hành nghề. Việc cấm người ĐDTPL có hành vi vi phạm như là một trách nhiệm hành chính bổ sung khi doanh nghiệp có hành vi vi phạm nghiêm trọng cần được xem xét và bổ sung vào. Từ tiền đề này, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động áp dụng pháp luật trở nên thuận lợi hơn. Tuy nhiên, bên cạnh thẩm quyền mở rộng theo quy trình phân công hợp lý thì việc giám sát hoạt động của các cơ quan trong việc áp dụng cần được tăng cường hơn thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được nhanh chóng, minh bạch và công khai.

- Một trong các yếu tố quan trọng nhất trong việc áp dụng pháp luật tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là nhân sự thực hiện. Luật Doanh nghiệp năm 2020 được tác giả đánh giá là tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình gia nhập thị trường cũng như cơ chế quản trị doanh nghiệp được sửa đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, trong đó có quy định về người ĐDTPL. Sự thuận lợi này cũng đồng nghĩa với yêu cầu nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật và năng lực làm việc của đội ngũ công chức trong hệ thống cơ quan nhà nước càng chặt chẽ hơn. Do đó, việc đầu tư nâng cao trình độ năng lực của cán bộ công chức liên quan đến thực hiện pháp luật doanh nghiệp cần được chú trọng và tiến hành thường xuyên, liên tục.

Qua những yếu tố phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật doanh nghiệp trong đó có LDN năm 2020 và các quy định về người đại diện theo pháp luật cần chú trọng đến vai trò chủ đạo của các các cơ quan nhà nước trong hoạt động áp dụng pháp luật.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Chế định đại diện là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật mà bất cứ quốc gia nào cũng không thể xem nhẹ vì những lợi ích của chế định này đối với nền kinh tế. Chế định này là một mắt xích quan trọng giúp các chủ thể trong xã hội kết nối với nhau xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại từ đơn giản đến phức tạp, giúp cho các chủ thể tận dụng được nguồn lực xã hội một cách tích cực nhất (do xã hội ngày nay có sự phân hóa lao động chuyên môn cao).

Có thể khẳng định rằng:

Pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp còn không ít nội dung cần được hoàn thiện. Lựa chọn mô hình người đại diện đồng thời là người có quyền quản lý doanh nghiệp là một trong các giải pháp cần tính tới nhằm bảo đảm sự thuận tiện trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, cần bảo vệ tốt hơn nữa quyền lợi người thứ ba ngay tình trong quan hệ đại diện của doanh nghiệp thông qua quy định về phân định thẩm quyền đại diện, công bố giới hạn thẩm quyền đại diện và xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vượt quá thẩm quyền hoặc giao dịch mà người đại diện không có thẩm quyền. Ngoài ra, cơ chế giám sát người đại diện trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc trong giai đoạn có nguy cơ phá sản cần được hoàn thiện nhằm ngăn ngừa các nguy cơ lạm dụng và phù hợp với đặc trưng doanh nghiệp ở Việt Nam.

Mặt khác, để thực hiện pháp luật tốt cần đảm bảo các yếu tố như nhận thức pháp luật, huớng dẫn thực hiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước. Việc nâng cao nhận thức pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp về vai trò, phân định thẩm quyền của người đại diện có hiệu quả hơn thông các các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng cơ cấu quản trị doanh nghiệp hiệu quả, cơ chế minh bạch thông tin nhằm bảo vệ các cổ đông và người thứ ba giao dịch với doanh nghiệp. Cơ quan Tòa án giữ vai trò quan trọng trong việc áp dụng pháp luật khi áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp liên quan đến người đại diện đảm bảo sự công bằng, nhanh chóng và hợp lý.

KẾT LUẬN

Pháp luật doanh nghiệp là một trong những thành tố của môi trường pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp. Trong đó, quy định về mô hình người ĐDTPL từ trước đến nay luôn chiếm vị trí quan trọng. Tuy nhiên, LDN năm 2014 và hiện nay là LDN năm 2020 còn những quy định chưa rò ràng, chưa hợp lý liên quan đến đại diện theo pháp luật dẫn đến hệ quả việc thực thi pháp luật trong đời sống thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu.

Thực tiễn đang đỏi hỏi việc quy định rò ràng, chi tiết vị trí, quyền hạn và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đây cũng là đòi hỏi hết sức quan trọng đối với các chủ sở hữu công ty, người được cử là người ĐDTPL và các bên có liên quan. Trong bối cảnh. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật để đáp ứng các chuẩn mực hiện đại về quản trị công ty, việc thiết lập một cơ chế vận hành, phối hợp và kiểm soát quyền đại diện, quyền quản lý điều hành và quyền giám sát trong doanh nghiệp là cần thiết. Hoàn thiện quy định của pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hiện nay không nằm ngoài mục tiêu đó.

Với ý nghĩa đó, luận án tập trung đề xuất một số ý giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật doanh nghiệp tập trung vào các khía cạnh như:

Lựa chọn mô hình đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kết hợp với quản lý trong doanh nghiệp nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tính linh hoạt và tính chịu trách nhiệm trong quản trị, điều hành doanh nghiệp. Điều đó cũng phù hợp với kinh nghiệm tham khảo pháp luật các nước Anh, Mỹ, Nhật, Pháp… Bên cạnh đó, gắn liền với thẩm quyền đại diện và thẩm quyền quản lý sẽ tránh được sự chồng chéo và vướng mắc trong việc phân định thẩm quyền đại diện.

Cơ chế bảo vệ bên thứ ba tham gia giao dịch với doanh nghiệp được đề nghị sửa đổi theo hướng bảo vệ triệt để hơn nữa, theo đó, những giới hạn thẩm quyền của doanh nghiệp trong điều lệ không ảnh hưởng đến giao dịch với người thứ ba trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc pháp luật buộc phải biết, qua đó, giả thiểu rủi ro pháp lý cho các chủ thể ngay tình và tạo môi trường kinh doanh thông thoáng ở Việt Nam.

Song song cùng với việc giải thích rò về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đại diện, làm rò trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ, cần xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu đối với người đại diện của doanh

nghiệp. Thẩm quyền phải gắn với nghĩa vụ và cơ chế giám sát hợp lý trong bối cảnh cần sự giám sát giữa những người đại diện theo pháp luật, quy định công bố thông tin và cơ chế hậu kiểm trong quản trị doanh nghiệp từ Ban kiểm soát, HĐTV/HĐQT.

Thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp một cách có hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố kết hợp hài hòa, từ quy định của pháp luật đến hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhận thức pháp luật của doanh nghiệp và các tổ chức trợ giúp, tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp cũng như khả năng quản trị doanh nghiệp trên thực tế. Do đó, việc thực hiện đồng bộ các kiến nghị, giải pháp có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả pháp luật về chủ đề này./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tài liệu tham khảo tiếng việt

1

Nguyễn Thị Lan Anh. 2015. Đại diện không có ủy quyền và vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn thạc sĩ luật học, năm

2015, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2

Vũ Thị Lan Anh. 2016. “Quy định mới của LDN năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, - Trường Đại học Luật Hà Nội, số

4/2016, trang 3 – 11.

3

Nguyễn Ngọc Anh (2018), “Các chủ thể tham gia quan hệ phá sản – một số bất cập và kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 06/7/2018, (https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/cac-chu-the-tham-gia-quan-he-phap-luat-

pha-san-mot-so-bat-cap-va-kien-nghi-hoan-thien), truy cập ngày 15/4/2020.

4

Đồng Ngọc Ba (2004),“Quan niệm về Doanh nghiệp - Một số vấn đề phương pháp

luận”, Tạp chí Luật học số 2/2004, trang 9-16.

5

Bộ Tư pháp và UNDP (2008), “Báo cáo kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam”, Dự án VIE/94/003 về tăng cường năng lực

pháp luật tại Việt Nam, Hà Nội.

6

Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2008), “Công ty: vốn, quản lý và tranh

chấp”, NXB Trí Thức, Hà Nội.

7

Ngô Huy Cương (2016), “Trách nhiệm hình sự pháp nhân: nhìn tổng thể Luật Hình sự, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Thương mại”, Tạp chí nghiên cứu lập

pháp, số 18 tháng 9/2016, trang 9-18.

8

Ngô Huy Cương (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam

- nhìn từ góc độ so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2009. Trang 26 - 31.

9

Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Thương mại, phần chung và thương

nhân”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 166.

10

Ngô Huy Cương .2013., Giáo trình Luật Hợp đồng phần chung (Dành cho hệ đào

tạo sau đại học)”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

11

Nguyễn Văn Cương (2016), “Khuyến nghị các giải pháp xử lý vấn đề tiếp thu kinh

nghiệm pháp luật nước ngoài trong bối cảnh Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Thực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 23

tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp luật tại Việt Nam: chia sẻ kinh nghiệm từ

Liên Minh Châu Âu, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà nội, trang 252 – 268.

12

Phạm Văn Cường (2019), “Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao kết hợp đồng với người không phải đại diện theo pháp luật của công ty”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, (https://tapchitoaan.vn/bai-viet/kinh-doanh/quyen-loi-cua-nguoi- thu-ba-ngay-tinh-khi-giao-ket-hop-dong-voi-nguoi-khong-phai-dai-dien-theo-

phap-luat-cua-cong-ty), truy cập ngày 29/5/2019.

13

Nguyễn Hoàng Duy (2016), “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật

Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

14

Đỗ Văn Đại, (2013), “Luật Hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án”, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc Gia (tái bản lần thứ tư), bản án 21-24.

15

Đỗ Văn Đại (2014), “Xác định phạm vi đại diện trong dự thảo Bộ Luật dân sự năm 2015” , đăng trên website hcmush.edu.vn, (http://phapche.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=df72838f-fbcf-42a0-8ed1-

e31dfbc54b39), truy cập 15.7.2017.

16

Đỗ Văn Đại, Lê Thị Hồng Vân (2016), “Bình luận khoa học những điểm mới của

BLDS” năm 2015, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Chương 6, trang 325.

17

Đỗ Văn Đại và Lê Thị Hồng Vân (2015), “Hoàn thiện quy định về đại diện trong Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát, số 22 tháng 11/2015, trang 40-

44.

18

Nguyễn Ngọc Điện, Đoàn Thị Phương Diệp, Lê Nguyễn Gia Thiện (2014),

Giáo trình Luật dân sự tập 1 – Tổng quan, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 110-112.

19

Luật sư Trương Thanh Đức (2016), “Luận giải về Luật Doanh nghiệp”, Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia, trang 163.

20

Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp năm 2014”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2015,

trang 18 - 22.

21

Bùi Xuân Hải (2004), “Lý luận và mô hình quản trị Công ty ở nước ngoài và vấn

đề tiếp nhận vào Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2012, trang 58- 66.


Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty

Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 4 (41)/2007, tr 21-27.

23

Trần Hoàng Hải (2018), “Bản chất doanh nghiệp Xã hội và phân loại pháp nhân”,

Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 08/2018, trang 63-69.

24

Nguyễn Thị Hạnh (2013), “Về vấn đề không xác định được địa chỉ người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong thụ lý, giải quyết vụ án dân sự”, Tạp chí

Tòa án số 19/2013, trang 32-35

25

Hồ Ngọc Hiển (2011), “Phạm vi đại diện, thẩm quyền đại diện nhìn từ góc độ lý luận và thực trạng pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2011, tr 48 –

54.

26

Hồ Ngọc Hiển (2012), “Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt

Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội

27

Kỷ yêu Hội nghị Quốc tế về Quản trị Doanh nghiệp của IFC/OECD tại Việt Nam

năm 2004 (nguồn: http:///www.oecd.org/dataoecd/27/19/34646858.pdf, truy cập ngày 17/4/2019

28

Ngô Gia Hoàng, Nguyễn Thị Thương (2016), “Người đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước Pháp luật tháng 7/2016, trang 48 – 53.

29

Nguyễn Vũ Hoàng (2013), “Chế định đại diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề

đặt ra trong thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học, số 2/2013, trang 22-31.

30

H.Kent Baker, Ronald Anderson (2012), “Quản trị doanh nghiệp, lý thuyết, nghiên

cứu và thực hành”, Nhà xuất bản kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.

31

Khải Kỳ (2016), “Cần sớm giải quyết dứt điểm vụ lùm xùm ở Công ty cổ phần May Sài gòn 3 , http://congan.com.vn/an-ninh-kinh-te/can-som-giai-quyet-dut- diem-vu-lum-xum-o-cong-ty-co-phan-may-sai-gon-3_15455.html, truy cập ngày

25/2/2018.

32

Nguyễn Thanh Lý (2018), “Kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty đại chúng theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học

và xã hội, năm 2018.

33

Nguyễn Công Lực (2012), “Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với những

doanh nghiệp vắng người đại diện hợp pháp”, Tạp chí Tòa án, số 13/2012, tr 7-8.

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí